Thursday, December 16, 2010

CHUYỆN "NGỤY QUÂN NGỤY QUYỀN"

Nhớ hồi em học lớp hai
Cô cho bài toán nhớ hoài không quên
Tóan rằng lính "Ngụy" mười tên
Giết ba còn mấy thưa liền cô nghe

Chiều tan học em về hỏi má :
-- ""Cách mạng" gì ác quá má ơi!
Sa’t nhân đâu phải chuyện chơi
Con không thích toán giết người nầy đâu !"

Má âu yếm vuốt đầu con trẻ
Con ngoan ơi nhớ nhé đừng quên:
-- "Học trò kính dưới nhường trên
Học câu lễ nghĩa chớ nên học thù !"

000000

Cha nhỏ bạn đi tù cải tạo
Mẹ ở nhà không gạo nuôi con
Nhỏ thôi cấp sách đến trường
Làm con của "Ngụy" trăm đường đắng cay!

"Ngụy" là gì em hay thắc mắc
Cô bảo rằng: "Là giặc hại dân
"Ngụy Quyền" với lại "Ngụy Quân"
Là phường bán nước buôn dân đấy mà!"

000000

Nay khôn lớn em đà hiểu thấu
Ngụy chính là thảo khấu cường đồ
Chúng từ miền Bắc tràn vô
Mang tăng (tanks)Sô Viết dày mồ cha ông

Ngụy là bọn Minh, Đồng, Chinh, Duẩn
Dân không bầu chúng vẫn tiếm ngôi
An thân nhược tiểu, bầy tôi
Bái chầu trung cộng làm bồi nga sô

Ngụy là bọn tam vô độc ác
Ngụy là đồ thờ “bác” chém cha
Ngụy là Phiêu, Khải gian tà
Là Mạnh là Dũng, qủy ma hiện hình

Ngụy đem buôn dân mình khắp xứ
Buôn đàn bà, phụ nữ trẻ thơ …
Đài Loan, Hương Cảng bơ vơ
Nhớ về cố quận lệ mờ mắt cay !

Ngụy là lũ độc tài độc đảng
Là gian phường cộng sản tham lam
Dám đem Bản Giốc, Nam Quan
Bán cho tàu cộng cầu an cầu hoà

00000

Công dân hỡi, QUỐC GIA lâm nạn
Hãy vùng lên diệt đám ngụy quyền
Diệt phường bán đất tổ tiên
Quyết tâm khôi phục hải biên, sơn hà !

Hương SàI-Gòn
06/06/06

Friday, December 10, 2010

62 Năm Ngày Quốc Tế Nhân Quyền

Cách đây đúng 62 năm, Tuyên Ngôn Nhân Quyền đã được thông qua tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc vào ngày 10 tháng 12 năm 1948 tại Palais de Chaillot ở Paris. Bản Tuyên ngôn đã được dịch ra ít nhất là 375 ngôn ngữ. Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc là tuyên ngôn đưa ra một quan điểm về các quyền con người cơ bản như quyền sống, quyền tự do và an ninh thân thể, quyền tự do lập hội, quyền tự do tôn giáo, quyền tự do ngôn luận và bày tỏ quan điểm, ..v.v...Tuyên bố phát sinh trực tiếp từ những kinh nghiệm của thế chiến thứ hai và đại diện các quyền mà tất cả mọi người được hưởng. Nó bao gồm 30 điều đã được xây dựng trong các Thỏa ước quốc tế, thỏa ước nhân quyền khu vực, hiến pháp và luật pháp quốc gia. Luật quốc tế về nhân quyền bao gồm Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, Công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội và văn hoá, và Công ước Quốc tế về Quyền Dân sự và hai Nghị định thư không bắt buộc. Năm 1966, Đại hội Đồng đã thông qua hai Giao ước chi tiết, qua đó hoàn thành Luật Quốc Tế Nhân Quyền.


Hãy cùng đọc lại Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền:


Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc


Xét rằng: Sự công nhận nhân phẩm của tất cả con người trong đại gia đình nhân loại và những quyền bình đẳng không thể tước đoạt của họ là nền tảng của tự do, công lý và hòa bình trên thế giới.


Xét rằng: Hành vi xem thường và chà đạp nhân quyền đã dẫn đến những hành động man rợ, xúc phạm đến lương tâm nhân loại. Việc tiến đến một thế giới trong đó tất cả mọi người được hưởng sự tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, không còn lo sợ hãi và nghèo khó, phải được tuyên xưng như là ước vọng cao nhất của con người.


Xét rằng: Nhân Quyền cần phải được bảo vệ bằng luật pháp, để con người không bị bắt buộc phải sử dụng đến biện pháp cuối cùng là vùng dậy chống lại độc tài và áp bức.


Xét rằng: Mối quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia cần được khuyến khích và mở rộng.


Xét rằng: Trong Hiến Chương, các dân tộc của cộng đồng Liên Hiệp Quốc đã lại một lần nữa xác định niềm tin vào những quyền căn bản của con người, vào nhân phẩm và giá trị con người, vào quyền bình đẳng nam nữ và cũng đã quyết định cổ vũ cho các tiến bộ xã hội và cải tiến mức nhân sinh trong bối cảnh ngày càng tự do hơn.


Xét rằng: Các quốc gia hội viên đã cam kết hợp tác với Liên Hiệp Quốc, nhằm cổ vũ việc tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do căn bản.


Xét rằng: Sự hiểu biết chung về nhân quyền và tự do là điều tối quan trọng để có thể thực hiện đầy đủ sự cam kết trên.


Do đó, Ðại Hội Ðồng Liên Hiệp Quốc long trọng công bố Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền này như là một khuôn mẫu chung cần đạt tới của mọi dân tộc và quốc gia, nhằm giúp cho mọi cá nhân và thành phần của xã hội luôn luôn theo sát tinh thần của Bản Tuyên Ngôn, dùng sự truyền đạt và giáo dục, để nỗ lực phát huy sự tôn trọng các quyền tự do này.


Mặt khác, bằng những phương thức tiến bộ trong phạm vi quốc gia cũng như quốc tế, phải bảo đảm sự thừa nhận và tuân hành Bản Tuyên Ngôn một cách có hiệu lực, trong các dân tộc của các nước thành viên, và ngay cả trong những người dân sống trên các phần đất thuộc quyền cai quản của các nước đó.


Ðiều 1:


Mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và quyền. Mọi người đều được phú bẩm về lý trí và lương tâm và vì thế phải đối xử với nhau trên tinh thần bác ái.


Ðiều 2:


Mọi người đều được hưởng tất cả những quyền và tự do được công bố trong Bản Tuyên Ngôn này và không có một sự phân biệt nào, như chủng tộc, màu da, phái tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hay tất cả quan điểm khác, quốc tịch hay nguồn gốc xã hội, tài sản, nơi sinh, hay tất cả những hoàn cảnh khác. Hơn nữa, cũng không được có sự phân biệt nào đối với con người sống trên một quốc gia hay trên một lãnh thổ, căn cứ trên cơ chế chính trị, nền tảng luật pháp hay quy chế quốc tế của quốc gia hay lãnh thổ đó. Cho dù quốc gia hay lãnh thổ này độc lập hay dưới sự bảo hộ, không được tự trị hay ở trong tình trạng bị hạn chế về chủ quyền.


Ðiều 3:


Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an toàn cá nhân.


Ðiều 4:


Không ai bị cưỡng bức làm nô lệ hay tôi đòi. Chế độ nô lệ và buôn bán nô lệ dưới mọi hình thức đều bị nghiêm cấm.


Ðiều 5:


Không một người nào phải chịu cực hình, tra tấn, hay bất kỳ hình thức đối xử, hoặc trừng phạt bất nhân, hay có tính cách lăng nhục.


Ðiều 6:


Ở bất cứ nơi nào, mỗi người đều có quyền được công nhận tư cách con người của mình trước pháp luật.


Ðiều 7:


Tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, và phải được bảo vệ một cách bình đẳng, không kỳ thị phân biệt. Tất cả đều được quyền bảo vệ ngang nhau, chống lại mọi kỳ thị vi phạm Bản Tuyên Ngôn này, cũng như chống lại mọi kích động dẫn đến kỳ thị như vậy.


Ðiều 8:


Mọi người đều có quyền được bảo vệ và bênh vực bởi các cơ quan tư pháp quốc gia có thẩm quyền về các hành vi vi phạm các quyền căn bản, do Hiến Pháp và Luật Pháp quy định.


Ðiều 9:


Không một ai bị bắt bớ, cầm tù hay lưu đày một cách độc đoán.


Ðiều 10:


Mọi người đều có bằng nhau quyền được phân xử công khai và công bằng, trước một tòa án độc lập và vô tư, để được phán quyết về các quyền lợi và nhiệm vụ của mình, hay về những tội phạm mà mình bị cáo buộc.


Ðiều 11:


Khi truy tố trước pháp luật, mọi người được xem là vô tội, cho đến khi pháp luật chứng minh là có tội, trong một phiên tòa công khai và tòa án này phải cung ứng tất cả mọi bảo đảm cần thiết cho quyền biện hộ của đương sự.


Không ai có thể bị kết án khi có những hành động hay sơ suất xảy ra vào lúc mà luật pháp của quốc gia hay quốc tế không qui định đó là một hành vi phạm pháp. Tương tự như vậy, không được áp đặt một hình phạt nào nặng hơn hình phạt được ấn định vào lúc hành vi phạm pháp xảy ra.


Ðiều 12:


Không một ai bị xâm phạm một cách độc đoán về đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở, hay thư tín, cũng như bị xúc phạm danh dự hay tiếng tăm của mình. Mọi người đều có quyền được luật pháp bảo vệ, trước những xâm phạm và xúc phạm như vậy.


Ðiều 13:


Mọi người có quyền tự do di chuyển và cư trú, trong phạm vi biên giới của quốc gia.


Mọi người đều có quyền rời khỏi lãnh thổ bất kỳ nước nào, kể cả nước của mình, và quyền trở về xứ sở.


Ðiều 14:


Trước sự ngược đãi, mọi người đều có quyền tị nạn và tìm sự dung thân tại các quốc gia khác.


Quyền này không được kể đến, trong trường hợp bị truy nã thật sự vì các tội phạm không có tính chính trị, hay do những hành vi trái với những mục tiêu và nguyên tắc của Liên Hiệp Quốc.


Ðiều 15:


Mọi người đều có quyền có quốc tịch.


Không một ai bị tước bỏ quốc tịch, hay bị từ chối quyền thay đổi quốc tịch, một cách độc đoán.


Ðiều 16:


Nam và nữ trong tuổi trưởng thành có quyền kết hôn và lập gia đình, mà không bị hạn chế về lý do chủng tộc, quốc tịch hay tôn giáo. Nam nữ đều có quyền bình đẳng lúc kết hôn, trong đời sống vợ chồng và lúc ly hôn.


Hôn nhân chỉ có thể tiến hành khi cả hai đều được tự do quyết định và đồng ý thật sự.


Gia đình phải được xem là một đơn vị tự nhiên và căn bản của xã hội, và được quyền bảo vệ của xã hội và quốc gia.


Ðiều 17:


Mọi người đều có quyền sở hữu tài sản cá nhân cũng như tập thể.


Không ai có thể bị tước đoạt tài sản của mình một cách độc đoán.


Ðiều 18:


Mọi người đều có quyền về tự do tư tưởng, nhận thức và tôn giáo. Quyền này bao gồm cả quyền tự do thay đổi tôn giáo hay tín ngưỡng, cũng như quyền tự do biểu lộ tôn giáo hay tín ngưỡng của mình, với tư cách cá nhân hay tập thể, ở nơi công cộng hay nơi chốn riêng, bằng sự truyền dạy, thực hành, thờ phượng và áp dụng các nghi thức đạo giáo.


Ðiều 19:


Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ quan điểm. Quyền này bao gồm sự tự do quan điểm mà không bị xen vào quấy rầy và được tự do tìm kiếm, thu nhận và quảng bá tin tức và tư tưởng qua mọi phương tiện truyền thông bất kể biên giới.


Ðiều 20:


Mọi người đều có quyền tự do hội họp và lập hội, một cách ôn hòa .


Không một ai có thể bị cưỡng bách gia nhập vào một đoàn thể.


Ðiều 21:


Mọi người đều có quyền tham gia vào việc điều hành xứ sở của mình, một cách trực tiếp hay qua các đại biểu được tuyển chọn một cách tự do.


Mọi người đều có quyền đón nhận những dịch vụ công cộng của quốc gia một cách bình đẳng.


Ý muốn của người dân phải là nền tảng của quyền lực chính quyền. Ý muốn này phải được thể hiện qua các cuộc bầu cử định kỳ và thực sự , bằng phiếu kín, qua phương thức phổ thông và bình đẳng đầu phiếu, hay các phương thức tương đương của bầu cử tự do.


Ðiều 22:


Vì là thành viên của xã hội, mỗi người đều có quyền an ninh xã hội, qua các cố gắng của quốc gia và hợp tác quốc tế, dựa theo phương cách tổ chức và tài nguyên của mỗi nước. Quyền này được đặt trên căn bản của sự thụ hưởng những quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa, cần thiết cho nhân phẩm và sự phát triển tự do của mỗi cá nhân.


Điều 23:


Mọi người đều có quyền làm việc, quyền tự do chọn việc làm, quyền được hưởng các điều kiện làm việc chính đáng và thuận lợi đối với công việc, và quyền được bảo vệ chống thất nghiệp.


Mọi người, không vì lý do kỳ thị nào, đều có quyền được hưởng lương bổng như nhau cho cùng một công việc.


Mọi người làm việc đều được quyền hưởng thù lao một cách công bằng và thích hợp, khả dĩ bảo đảm cho bản thân và gia đình mình một cuộc sống xứng đáng với nhân phẩm, cũng như được trợ giúp nếu cần, qua các phương thức bảo vệ xã hội khác.


Mọi người đều có quyền thành lập và tham gia vào các nghiệp đoàn, để bảo vệ quyền lợi của mình.


Ðiều 24:


Mọi người đều có quyền nghỉ ngơi và giải trí, kể cả việc hạn chế hợp lý số giờ làm việc, và các ngày nghỉ định kỳ có trả lương.


Ðiều 25:


Mọi người đều có quyền được hưởng một mức sống phù hợp với sức khỏe và sự no ấm cho bản thân và gia đình bao gồm: thực phẩm, quần áo, nhà ở, y tế và các dịch vụ xã hội cần thiết, quyền an sinh trong lúc thất nghiệp, đau ốm, tàn tật, góa bụa, tuổi già hay các tình huống thiếu thốn khác do các hoàn cảnh ngoài khả năng kiểm soát của mình.


Các bà mẹ và trẻ con phải được hưởng sự chăm sóc và trợ giúp đặc biệt. Tất cả mọi trẻ con, sinh có hôn thú hay không, đều được xã hội bảo vệ một cách bình đẳng.


Ðiều 26:


Mọi người đều có quyền được giáo dục. Giáo dục phải được miễn phí, ít nhất là ở bậc tiểu học và căn bản. Giáo dục tiểu học phải bắt buộc. Giáo dục kỹ thuật và chuyên nghiệp phải được mở rộng và giáo dục đại học phải được mở rộng bình đẳng cho mọi người, trên căn bản tài năng xứng đáng.


Giáo dục phải được điều hướng để phát triển đầy đủ nhân cách, và củng cố sự tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do căn bản. Giáo dục phải nhằm cổ vũ sự cảm thông, lòng khoan dung, và tình hữu nghị giữa mọi quốc gia, mọi nhóm chủng tộc hoặc tôn giáo, và hỗ trợ việc phát triển các sinh hoạt của Liên Hiệp Quốc nhằm duy trì hòa bình.


Cha mẹ có quyền ưu tiên chọn lựa phương cách giáo dục dành cho con cái mình.


Ðiều 27:


Mọi người đều có quyền tự do tham gia sinh hoạt văn hóa cộng đồng, thưởng thức các bộ môn nghệ thuật, và cùng chia sẻ các tiến bộ khoa học cũng như các lợi ích của khoa học.


Mọi người đều có quyền được bảo vệ về tác quyền, trên bình diện tinh thần cũng như quyền lợi vật chất, đối với các tác phẩm khoa học, văn chương, hay nghệ thuật.


Ðiều 28:


Mọi người đều có quyền đòi hỏi được sống trong một trật tự xã hội và trật tự quốc tế, trong đó các quyền và các tự do được đề cập trong Bản Tuyên Ngôn này có thể được thể hiện đầy đủ.


Ðiều 29:


Mọi người đều có bổn phận đối với cộng đồng nào mà chỉ trong đó mới có thể phát triển toàn vẹn và tự do nhân cách của mình.


Trong việc hành xử nhân quyền và thụ hưởng tự do, mọi người chỉ phải chịu những hạn chế do luật định, và những hạn chế này chỉ nhằm mục tiêu bảo đảm sự thừa nhận và tôn trọng nhân quyền, và quyền tự do của những người khác, cũng như nhằm thỏa mãn những đòi hỏi chính đáng về luân lý, trật tự công cộng, và nền an sinh chung trong một xã hội dân chủ.


Trong bất cứ trường hợp nào, nhân quyền và những quyền tự do này cũng không được hành xử trái với những mục tiêu và nguyên tắc của Liên Hiệp Quốc.


Ðiều 30:


Không một điều nào trong Bản Tuyên Ngôn này được hiểu và hàm ý cho phép một nước, một nhóm hay một cá nhân nào được quyền có những việc làm hay hành động nhằm hủy diệt nhân quyền và tự do được thừa nhận trong bản Tuyên Ngôn này.


Liên Hiệp Quốc, ngày 10 tháng 12 năm 1948


Và giờ đây, hãy nhìn lại tình trạng nhân quyền ở đất nước Việt Nam nhỏ bé của tôi mà xem.


Tuy là một thành viên của Hội đồng Bảo An LHQ, đáng lẽ phải làm gương, thì Việt Nam lại thường xuyên vi phạm luật nhân quyền quốc tế. Ví dụ: Bộ luật hình sự Việt Nam (BLHS) vẫn đầy rẫy những điều khoản mâu thuẫn với công ước này (như điều 88 BLHS về tội “tuyên truyền chống nhà nước XHCN” có mâu thuẫn xung khắc với quyền tự do ngôn luận của công ước). Tòa án Việt Nam cũng không cần biết đến luật quốc tế khi xử án mặc dù Việt Nam đã có luật thực hiện các điều ước quốc tế từ năm 2005.


Chính quyền Việt Nam luôn luôn tự đưa ra những lời biện hộ, những lối giải thích của mình về nhân quyền một cách tuỳ tiện. Chính quyền Việt Nam (và ngay cả rất nhiều người khác, cả trong lẫn ngoài nước) vẫn cho rằng vấn đề nhân quyền của Việt Nam đã được tiến triển. Họ cho rằng những đánh giá từ bên ngoài là không đúng, thiếu khách quan, v.v.. Nhưng hãy nhìn lại những vi phạm nhân quyền ở Việt Nam trong thời gian gần đây thì thấy rõ đấy thôi. Việc tra tấn và đánh chết giáo dân Cồn Dầu vẫn còn nhân chứng đó. Việc bắt giam tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ thì ai cũng biết cả rồi. Những việc bắt giam các nhà bất đồng chính kiến, những bloggers khắp nơi. Chuyện đả thương bà Trần Khải Thanh Thủy hay truy tố nhà báo Điếu Cày về tội "tuyên truyền". Ngay cả việc lập bức tường lửa (firewall) đối với trang mạng Facebook và nhiều trang mạng khác cũng đã nói nên sự vi phạm nhân quyền trầm trọng lắm rồi.


Việt Nam không thể nào đồng hóa vấn đề nhân quyền với những âm mưu chính trị nhằm lật đổ chế độ, nhằm kích động các vấn đề tôn giáo, dân tộc, xâm phạm an ninh và chủ quyền, v.v... được. Sự lập lờ đánh lận con đen của chính quyền Việt Nam ngày càng tinh vi đến khủng khiếp. Việt Nam có nhân quyền mà sao nhiều trang web vẫn cứ bị bức tường lửa chặn lại? Việt Nam có nhân quyền sao có lắm người dân oan khiếu kiện thế kia? Việt Nam có nhân quyền sao lại không để có người dân khốn khổ thực sự gióng lên tiếng nói, suy nghĩ của mình mà lại bịt miệng họ? Việt Nam có nhân quyền sao vẫn để cho những sự xâm phạm về đời sống riêng tư, gia đình, thư tín của một người dân đến độc đoán như vậy? Muốn xét nhà người khác lúc nào thì xét. Muốn bắt bớ ai lúc nào thì bắt. Muốn xử ai tội nào thì cứ bịa ra tội rồi xử cũng xong. Việt Nam có nhân quyền mà sao lại ngăn cấm những con dân đất Việt được quyền trở về xứ sở, nơi chôn nhau cắt rốn của mình? Việt Nam có nhân quyền mà sao lại có những chuyện cướp đoạt tài sản, đất đai của người dân đến độ dân oan phải khiếu kiện khắp nơi từ Nam đến Bắc? Việt Nam có nhân quyền sao lại không để cho người dân được tự do biểu lộ tôn giáo hay tín ngưỡng của mình nhỉ? Việt Nam có nhân quyền mà sao lại không được quyền tự do hội họp và lập hội vậy ta?? ..... Kể ra thì còn nhiều và nhiều lắm.


Những quyền căn bản nhất của một người dân vẫn bị vi phạm thì làm sao lại nói có nhân quyền ở Việt Nam cho được? Không cần phải chờ đến ngày Nhân Quyền thì mới thấy xót xa thương cho dân mình, người dân Việt Nam có đủ điều kiện nhất là về trí tuệ, tập quán, để được hưởng quyền làm người, mà chủ yếu là dân quyền đâu. Mỗi giây phút, quyền làm người tại chính quê hương xứ sở của tôi vẫn đang bị tước đoạt, vẫn đang bị vi phạm trầm trọng đây.


Chiều hôm nay, giải Nhân Quyền Việt Nam do Mạng Lưới Nhân Quyền, trụ sở tại California, thành lập năm 2002 và trao tặng hàng năm cho các nhà dân chủ trong nước, đã quyết định trao giải thưởng năm 2010 cho nhà báo Trương Minh Đức và nhân vật đấu tranh cho giới lao động Đoàn Huy Chương. Cả hai ông vẫn còn đang ngồi tù ở Việt Nam. Giải thưởng sẽ được trao đến người đại diện trong buổi lễ tổ chức tại Hội Quán Saigon Houston, trên đại lộ Bellaire, thành phố Houston, Texas.


Mong thay trong một ngày rất gần. Các quyền cơ bản của con người như quyền sống, quyền tự do lập hội, quyền tự do tôn giáo, quyền tự do ngôn luận và bày tỏ quan điểm của những người dân đất Việt tại quê hương chữ S sẽ được vẹn toàn, đủ đầy hơn.


Mong lắm thay!


Ghi Chú: - Bản gốc bằng tiếng Anh

Dòng Tên, Alexandre de Rhodes và chữ quốc ngữ: cơ hội canh tân đất nước bị bỏ lỡ cách đây 400 năm

Nhiều học giả coi cuốn tự điển Annamiticum Lutsitanum et Latinum (Việt – Bồ – La), công trình của giáo sĩ dòng Tên Alexandre de Rhodes được xuất bản tại Rome năm 1651, như bản khai sinh của chữ quốc ngữ. Như vậy chỉ còn 1 tháng nữa đến năm 2011 là chữ quốc ngữ được tròn 360 tuổi. Nhân dịp này tôi xin kể qua lịch sử dòng Tên và những hoạt động nổi bật nhất của nó ở nhiều nơi trên thế giới từ khi Dòng được thành lập cách đây gần 5 trăm năm cho đến ngày nay. Tôi cũng sẽ xin nói thêm là chữ Quốc ngữ là di sản quý báu nhất mà dòng Tên đã để lại. Tiếc là các vua chúa thời đó đã bỏ lỡ cơ hội không biết dùng nó thay chữ Hán để thoát khỏi lệ thuộc Trung Quốc về tư duy và canh tân đất nước.

Tóm tắt lịch sử Dòng Tên

Sinh trong một gia đình quí tộc người Basque Y Pha Nho, vị sáng lập dòng Tên Ignace de Loyola (1491-1556) hồi trẻ chỉ lo ăn chơi trác táng. Mới nhập ngũ được 8 ngày đã bị thương trong trận vây đánh thành Pampelune. Trong thời gian 1 năm nằm chờ vết thương lành, ông suy nghĩ về sự huyền bí của tạo vật và đột nhiên cảm thấy có ơn Chúa gọi nên ông đợi đến khi lành lặn hẳn đi hành hương ở thánh địa Jerusalem trước khi trở về học các trường Đại học Alcalá, Salamanque Y Pha Nho và sau đó tới Paris học Đại học Sorbonne. Năm 1534 cùng mấy đồng bạn lên gò Montmartre ở Paris thề nguyền từ bỏ nhục dục, sống nghèo khổ. Được thụ phong linh mục tại Venise năm1537 và 3 năm sau (1540) chính thức sáng lập Dòng Tên .

Tên tiếng Pháp của dòng là La Compagnie des Jésuites. Tiếng Việt gọi là Dòng Tên (tránh gọi tên Jésus sợ phạm húy). Compagnie có nhiều nghĩa: ngoài nghĩa hội, đoàn (tiếng Anh gọi là The Society of Jesus), còn có nghĩa “Đội quân”. Ông Loyola dùng những từ ngữ quân sự để muốn nói dòng mình là một đội quân của Chúa Giê Su và mỗi giáo sĩ là một người lính của Chúa. Vị lãnh đạo Dòng (được chọn sau một cuộc bầu cử) mang danh hiệu là “ông Tướng” (le Général). Tiêu chuẩn đầu tiên của dòng là phải có óc phục tòng như người lính phục tòng ông tướng. Tiêu chuẩn thứ 2 là kiến thức: Mỗi chủng sinh phải qua 1 thời gian đào tạo rất lâu dài, ít nhất là 10 năm: 2 năm tiểu chủng viện. 3 năm học triết và các ngành nhân văn, khoa học. Thực tập ngoài đời từ 3 đến 5 năm. Trở lại đại chủng viện học thêm 4 năm thần học. Nhờ được đào tạo kỹ lưỡng như vậy nên giáo sĩ Jésuite nào cũng có đủ kiến thức, đức tính và khả năng để có thể trong bất cứ trường hợp nào cũng có thể thích ứng với môi trường nơi mình truyền đạo, cải tạo xã hội theo hướng của Dòng. Đồng thời đức tính phục tòng bề trên và thói quen nhẫn nại cũng giúp người giáo sĩ dòng Tên sống một cuộc đời mẫu mực để làm gương và giáo huấn tín đồ. Nói tóm lại, người sáng lập Hội đoàn Jésuite muốn dòng của mình là một dòng ưu việt, một “đội quân” dũng mãnh về mặt giáo lý và kiến thức để có thể hoàn thành tất cả mọi nhiệm vụ được giao phó.

Hồi đầu Ignace de Loloya muốn dòng Tên chỉ có mục tiêu đem kiến thức thuyết phục những người theo đạo Phản thệ hay người ngoại đạo trở về với Giáo hội La Mã. Nhưng cũng chính lúc đó các thân hào ở tỉnh Messine (thuộc đảo Sicile Ý) yêu cầu ông Loloya mở trưởng cho tỉnh (1548). Trường được nổi tiếng và kể từ đó ở Âu châu Dòng Tên thấy cần thay đổi mục tiêu là đào luyện một tầng lớp trí thức có khả năng canh tân xã hội theo đường lối Công giáo. Dòng Tên từ đó mở ra những trung tâm đại học danh tiếng cho tới ngày nay. Khi ông Loyola mất năm 1556 dòng có 1000 giáo sĩ. Một trăm năm sau số giáo sĩ lên đến 15000 với 580 trường học ở Âu, Á, Mỹ.
Những hoạt động nổi bật nhất của dòng Tên từ khi mới được thành lập

1° Hoạt động mang nhiều màu sắc chính trị ở Âu châu

Ở Âu châu dòng Tên hoạt động đúng vào thời kỳ có những xung đột tôn giáo hoà lẫn với chính trị nên gặp nhiều sự chống đối của giới cầm quyền vua chúa cũng như giáo hoàng. Dòng bị xua đuổi, giải tán, cả thảy 30 lần:

Ở Pháp, năm 1563 dòng Tên mở Collège de Clermont cạnh tranh với Đại Học Sorbonne lấy hết sinh viên của Đại học này vì không những dạy giỏi mà còn dạy miễn phí. Những người ghen ghét dòng Tên tìm cơ hội để triệt hạ Dòng: Năm 1594 Jean Chatel một cựu học sinh trường Clermont lấy dao đâm vua Henri IV. Lập tức trường bị đóng cửa, các thày dạy bị đi đầy, ông thày dạy Chatel thần học bị treo cổ xác bị vứt ngoài bãi. Mãi đến năm 1618 trường mới được vua Louis XIV cho phép mở lại với tên là Louis Le Grand (bây giờ là trường Trung học sửa soạn thi Đại học danh tiếng nhất nhì nước Pháp). Năm 1762 Trường lại bị đóng cửa vì 1 người làm công cho trường tên là Damien tính ám sát vua Louis XV.

Năm 1750 khi Y Pha Nho và Bồ Đào Nha ký hiệp uớc chia nhau khu tự trị Paraguay Nam Mỹ dòng Tên huy động dân bản xứ lập quân đội chống lại liên quân 2 nước này. Bồ Đào Nha trả đũa cấm dòng Tên được hoạt động ở Bồ Đào Nha và ở mọi lãnh thổ Bồ Đào Nha trên thế giới.

Năm 1767, vua Y Pha Nho Charles III ra lệnh bắt 5000 giáo sĩ dòng Tên và đóng cửa 240 cơ sở của Dòng, không những ở chính quốc mà còn ở khắp mọi nơi trên thế giới thuộc thẩm quyền Y Pha Nho.

Năm 1773, cũng vì quá thành công ở Trung Quốc nên những kẻ ghen ghét dèm pha với Giáo hoàng là dòng Tên chấp nhận tục thờ cúng tổ tiên trái với giáo lỳ Công giáo. Giáo hoàng ra lệnh giải tán Dòng. Mãi đến năm 1814 Giáo Hoàng Pie VII mới cho lập lại.

2° Những hoạt động “cách mạng” chống thực dân ở Mỹ châu

Ở Mỹ Châu hoạt động nổi bật nhất của Dòng là đã đứng về phía người Da đỏ Guarani ở Paraguay (Nam Mỹ) chống lại thực dân Y Pha nho và những tập đoàn bắt người làm nô lệ. Dòng thành lập những thị xã trong cả thẩy 38 “tiểu vực” (reductions) để tạo ra một nước tự trị gồm 110000 dân da đỏ trên một lãnh thổ rộng bằng nửa nước Pháp, đóng thuế thẳng cho vua Y pha nho. Mỗi thị xã đều có khu nhà dân cư, khu công cộng gồm nhà thờ, toà hành chính, trường học… cai trị bởi một hội đồng quản trị gồm người bản xứ và qua một cuộc bầu cử trực tiếp. Tiếng bản xứ được dạy ở trường. Học sinh được tập thể dục và có những hoạt động văn hóa như diễn kịch, ca hát … Trong xã hội mọi người đều bình đẳng không có kẻ giầu người nghèo. Không có án tử hình. Nhà nước lập quân đội gồm người bản xứ để chống ruồng bắt nô lệ. Voltaire, Montesquieu và sau này Lafargue rể của K.Marx đều ngợi khen nước Cộng Hòa Ki Tô này. Thời gian tồn tại của nước này cũng được 181 năm, từ 1588 cho tới khi dòng Tên bị vua Y Pha Nho đuổi năm 1769.

3° Ở Viễn Đông dòng Tên chinh phục các vua chúa bằng kiến thức khoa học và kỹ thuật:

Ở những nước Viễn Đông theo truyền thống Khổng Mạnh như Nhật Bản, Trung Hoa và Đại Việt (Việt Nam), dòng Tên gặp phải sự chống đối của giới quan lại vì bị coi là muốn phổ biến những ý tưởng trái ngược với quan niệm Quân phu phụ của Khổng Tử khiến trật tự xã hội có thể bị đảo lộn. Để qua mặt giới này các giáo sĩ dòng Tên tìm cách đến gần các vua chúa, đem những mưu kế và những kiến thức khoa học và kỹ thuật cống hiến các vua chúa để được tin dùng. Một khi đã được sự bảo trợ của các vua chúa, các giáo sĩ cũng dễ dàng xin được phép truyền đạo trong dân chúng.

Vấn đề là tuy cùng một văn hoá, hoàn cảnh chính trị 3 nước Nhật Bản, Trung Hoa và Đại Việt hoàn toàn khác nhau nên điều quan trọng nhất là phải biết tùy nghi mà hành động. Vị lãnh đạo dòng Tên biết vậy nên đã chọn lựa và cử qua các nước này những vị giáo sĩ ưu tú nhất:François Xavier (Nhật Bản), Matteo Ricci (Trung Hoa), Alexandre de Rhodes (Đại Việt).

Tôi xin kể những hoạt động của 3 vị này

Nhật Bản:
François Xavier (y Javier) (1506-1552) sinh ở Navarre xứ Basque sau bị Y Pha Nho chiếm. Thù ghét Y pha Nho nên năm 18 tuổi qua Pháp học Đại học Sorbonne. Cùng Ignace de Loloya sáng lập Dòng Tên. Được Loyola cử đi truyền giáo ở Goa thuộc địa Bồ Đào Nha ở Ấn độ năm 1542. Trong những lần đi Malacca (Mã lai) gặp nhiều người Nhật nên nuôi ý định đi truyền giáo ở Nhật. Ngày 15-8-1549 ông lên một chiếc thuyền Trung Quốc đi tới tỉnh Kagoshima bên Nhật. Ở tỉnh này ông thường trao đổi ý kiến và bàn luận với một vị cao tăng Nhật. Sau đó ông đi Kyoto tiếp xúc với các nho sĩ Nhật trước khi đi đến vùng Yamayuchi lập nhà Thờ và tới Funai trên đảo Kyushu ở. Năm 1552 nghe lời khuyên của các nhà nho Nhật là muốn cảm hóa được nhiều người Nhật theo đạo thì trước hết phải thuyết phục được người Trung Quốc, ông lên 1 chiếc thuyền đi Quảng Châu và bị mất trước khi tới.

Trong thời gian ngắn ngủi ở Nhật ông Xavier cảm hóa được nhiều người theo đạo trong số các quan chức như Shogun (Tướng quân, Mạc chúa) Otomo và nhiều daimyos (đại danh)). Cũng nhờ vậy mà đạo Thiên chúa trong thời gian này được truyền bá rất mau chóng nhất là ở tỉnh Nagasaki, nơi mà Dòng Tên còn được phép độc quyền mua bán tơ lụa. Trớ trêu thay Nagasaki nơi có nhiều người theo đạo Công giáo nhất cũng là nơi chịu trái bom nguyên tử 400 năm sau.

Đọc kỹ lịch sử truyền giáo ở Nhật mới thấy các mạc chúa Nhật không thiển cận như các vua chúa Việt Nam thời ấy: Các mạc chúa và các nhà truyền giáo dòng Tên đặt quan hệ trên nguyên tắc trao đi đổi lại: cho quyền giảng đạo miễn là đừng lấn tới chính trị và các giáo sĩ phải giúp các Mạc chúa súng ống, cách đóng thuyền, trang bị các tàu thuyền của Nhật dụng cụ đi biển. Nhờ vậy mà thương thuyền Nhật bản có mặt ở cùng Đông Nam Á: Đài Loan, Phi Luật Tân, Nam Dương và nhất là Việt Nam (Hải Phòng, Phố hiến, Hội An, Đà Nẳng….) Mạc chúa Mobunaga (1534-1582) lại còn lợi dụng đạo mới Tây phương để khuynh đảo những giáo phái Phật giáo mà ông ghét. Mạc chúa Hideyoshi (1536-1598), tuy ra lệnh giết 26 người Kitô giáo Nhật nhưng vẫn sủng ái dòng Tên nên cho phép các thương thuyền Bồ Đào Nha dựa vào thế lực dòng này được buôn bán ờ Nagasaki (coi phim Shogun). Sự đố kỵ và tranh giành thị trường giữa người Hòa Lan theo Thệ phản và người Bồ Đào Nha theo Công giáo cũng được các mạc chúa khai thác để chia rẽ những người Tây phương với nhau. Chỉ bắt đầu từ Mạc chúa Tokugama Leyasu (1543-1616), khi thấy có thể giao thiệp thẳng với các vua chúa và các nhà cầm quyền vùng Đông Nam Á (kể cả Phi Luật Tân thuộc Y Pha Nho) không cần sự môi giới của các nhà truyền giáo, đồng thời những kỹ thuật đóng tàu, đi biển không còn gì là bí mật nữa, mới cấm đạo trở lại. Chính sách lợi dụng những hiểu biết của Tây phương rồi vắt chanh bỏ vỏ có từ thời các mạc chúa mấy trăm năm trước Minh Trị và vẫn tiếp tục cho tới ngày nay.

Trung Hoa:
Matteo Ricci: Gốc người Ý. Sinh năm 1552. Chủng sinh Dòng Tên năm 1571. Sau khi được thụ phong linh mục Matteo Ricci theo vết chân của François Xavier qua Trung Quốc, coi Trung Quốc là nơi truyền giáo lý tưởng vì không có những đạo giáo như đạo Hồi, cần phải đấu tranh một mất một còn, và là nơi 2 nền văn minh văn hoá Trung Quốc và Âu Tây có thể hoà hợp bổ sung nhau. Ngay khi mới tới Macao tháng 8 năm 1582, ông đã lo học tiếng Tàu và khi được ở Triệu Thanh Phủ gần Quảng châu cùng với mấy nhà truyền giáo khác, ông mời Tổng Đốc Lưỡng Quảng và các quan chức tới Triệu Thanh Phủ để trình bày rất nhiều dụng cụ như đồng hồ, máy móc, địa bàn địa cầu , ống kính thiên văn v.v… đem từ Macao qua và sau đó dùng làm quà biếu xén để lấy lòng các vị đó. Ở Triệu Thanh phủ, ngoài thì giờ nghiên cứu và chế tạo máy móc Ricci còn lo học Tứ Thư Ngũ Kinh để bàn cãi với các nho sĩ về những điểm tương đồng giữa Ki Tô giáo và Nho giáo. Ông nghe lời khuyên của các vị này tự bỏ áo thày tu mặc áo nho sĩ. Năm 1593 ông dịch Tứ thư Ngũ Kinh ra tiếng La tinh rồi kiếm cách đi Bắc Kinh xin vào triều kiến Vua. Muốn tới Bắc Kinh phải qua nhiều người dẫn tiến và phải đi Nam kinh trước. Ông tới Nam Kinh ngày 31 tháng 5 1595 nán lại nhà một thân hữu là ông quan họ Hoàng (Wang Zongming) cho tới tháng 9 mới đi Bắc Kinh. Nhưng ở Bắc Kinh ông không tìm được một vị triều thần nào thân cận vua để tiến dẫn ông vào triều kiến. Ông đành trở lại Nam Kinh mua nhà tọa lạc tại nghiên cứu dạy học cho tới năm 1601 đời Vạn Lịch mới được trở lại Bắc Kinh và sống ở đó cho tới khi chết (1610). Ông được nhà vua cho đất táng và cho một cái chùa để các cha dòng Tên ở.

Ông Matteo Ricci lấy tên Hán là Lý Mã Đẩu trở thành một nhà nho không khác gì một nho sĩ Trung Quốc, viết rất nhiều sách khoa học bằng chữ Hán dâng Vua như cuốn Những nguyên lý Euclide, cuốn Bản đồ – địa chí cuốn Luận về Tình bằng hữu v.v..
Dưới triều đại nhà Thanh các giáo sĩ dòng Tên vẫn được lưu dụng và được sủng ái, nhất là dưới triều thịnh trị Khang Hi: Các giáo sĩ dòng Tên giúp Vua trong sự giao thiệp giữa Trung Quốc và nước Nga, giúp về kiến trúc, thiên văn, nghệ thuật (tìm ra men màu hồng famille rose cho đồ sứ), vẽ bản đồ Trung Quốc v.v.. Dòng Tên chỉ bị thất sủng dưới Triều Ung Chính và Càn Long. Sau đó, từ 1842 đến 1949 được dùng lại và được phép mở trường ở Thượng Hải (1842) mà trường Đại học nổi tiếng nhất là trường Aurore (Rạng Đông) nơi rất nhiều trí thức Trung Hoa được đào tạo. Tới năm 1850 Trung Quốc đã có 4 trường Đại học dòng Tên không kể những đài thiên văn, những trung tâm kỹ thuật… Có sự ngược đời là chính óc thiển cận của giáo hội La Mã thời đấy như ngăn cấm sự thờ cúng tổ tiên, đã làm khựng lại hoạt động truyền giáo của dòng Tên trong dân gian Trung Quốc chứ không phải là vì có sự ngăn cấm từ triều đình.

Đại Việt:
Alexandre de Rhodes. Gốc Do Thái tỉnh Aragon Y pha Nho. Ông thân sinh tên là Rueda chạy trốn Toà án dị giáo qua ẩn trú ở Avignon đất của Giáo Hoàng đổi tên là Rhodes sau khi cải đạo theo Công giáo. Alexandre de Rhodes sinh ở đất Giáo hoàng năm 1591 nên là thuộc dân của Giáo Hoàng chứ không phải là dân Pháp (chỉ sau Cách mạng 1789 Avignon mới thuộc về Pháp). Học dòng Tên ở Rome năm 18 tuổi cho tới năm 1618. Sau khi được thụ phong được cử đi Goa truyền đạo. Học tiếng Bồ Đào Nha ở Goa trước khi đi đến Macao cuối năm 1619. Được dự định cử qua Nhật nên học tiếng Nhật ở Macao. Cho tới tháng Tư năm 1622 tính qua Nhật, thì đúng vào lúc lệnh trục xuất các giáo sĩ của Mạc chúa Tokagama được thi hành triệt để nên bề trên bảo ông phải đổi hướng đi Tourane (Đà Nẵng) nước Đại Việt vì ở đó đã có sẵn cơ sở dòng Tên từ năm 1615 của 2 cha Francisco Buzomi và Diego Carvalho. Cuối năm 1624 cùng 5 giáo sĩ dòng Tên khác ông tới Faifo (Hải phố) nay gọi là Hội An thuộc Đàng Trong dưới triều chúa Sãi (Nguyễn Phúc Nguyên). Chỉ trong vài tháng, A. de Rhodes đã thông thạo tiếng Việt, lấy tên Việt là Đắc Lộ và bắt đầu giảng đạo bằng tiếng này. Ông cũng bắt đầu lấy lại những công trình của Francisco de Pina (1585-1625) để tìm cách phiên âm tiếng Việt bằng chữ La tinh.
Chúa Sãi không chú ý nhiều về đạo giáo mà chỉ quan tâm nhiều về quan hệ thương mại, đặc biệt là với những nước ngoài. Nhờ vậy dưới triều chúa Sãi Faifo trở thành một hải cảng quốc tế.

Mãi tới năm 1626 dòng Tên mới cử một giáo sĩ người Ý tên là Giuliano Belditoni đi giảng đạo ở Đàng ngoài (Đông kinh, Tonkin). Ông này than vãn tiếng Việt khó quá nên Dòng cử Đắc Lộ đi Đông Kinh, thay thế Belditoni. Năm 1627 dưới triều chúa Trịnh Tráng, Đắc Lộ tới Hà Nội đem theo 2 món quà để biếu Chúa là một đồng hồ và một cuốn sách của Euclide nói về hình cầu. Được lòng Chúa nên Đăc Lộ có cơ hội tới gần phủ Chúa và rửa tội cho một người em gái của Chúa với tên là Catherine. Nhà Thờ đầu tiên ở Đàng Ngoài được Đắc Lộ xây dựng nằm ở địa phận Thanh Hoá. Nhưng cũng lúc đó các quan lại hầu cận vua đưa ra tin đồn Đắc Lộ là gián điệp nên ông bị quản thúc ở Hà Nội cho đến năm 1630 thì bị trục xuất ra khỏi Đàng Ngoài. Trong thời gian 3 năm ở Đàng Ngoài Đắc Lộ rửa tội được chừng 7000 người.
Đắc Lộ trở về Macao dạy học từ 1630 tới 1640 và bắt đầu từ 1640 đến 1645, đi đi lại lại Đàng Trong 4 lần, phần nhiều được những gia đình có đạo bao che hay ẩn trú ở Faifo trong khu Nhật Bản. Lần thứ hai, nhờ sự môi giới của các thương gia Nhật Bản và của bà công chúa Minh Đức cô của Chúa Thượng (Nguyễn Phúc Lan) có đạo tên là Marie, Đắc Lộ đem cả một tàu đồ biếu quan đầu tỉnh là Ông Nghè Bộ nên được ở từ tháng 1-1642 đến tháng 9-1643. Nhưng lần cuối cùng khi trở lại Đàng Trong tháng 1-1644 thì bị bắt ở biên giới giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài và bị nghi ngờ là gián điệp nên bị kết tội xử tử. Sau nhờ sự can thiệp của bà công chúa Marie Minh Đức,án tử hình được đổi thành chung thân biệt xứ và bị đuổi ra khỏi Đàng Trong tháng 7-1645.

Sau khi trở về Macao ông đi nhiều vùng quanh Ấn độ Dương và Trung Đông trước khi tới Rome tháng 6-1649 để hoàn thiện cuốn tự điển Việt- Bồ- La và cho xuất bản. Ông mất ở Ba Tư năm 1660.
So với François Xavier (sau được phong thánh) và Lý Mã Đẩu (Matteo Ricci), cuộc đời của Đắc Lộ gian khổ hơn nhiều vì phải sống chui lủi trong đám người chài lưới cùng khổ chứ không được các vua chúa, các giới quyền quí sủng ái như 2 vị trên. Nhưng cũng vì sống 20 năm hoà mình trong quần chúng ở cả 3 miền đất nước, Trung, Nam, Bắc, nên tiếng Việt của ông là tiếng Việt của người dân, tiếng nôm na chứ không phải tiếng Hán Việt thơ phú của giới nho sĩ. Cuốn Từ điển Việt-Bồ-La của ông phải được kể là một công trình vĩ đại trong lịch sử văn hoá thế giới vì nhờ nó mà các nhà ngữ học biết được những từ ngữ tiếng Việt cổ cách đây 400 năm. Ông cũng là người độc nhất dùng 5 dấu, sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng, để ghi thanh điệu tiếng Việt khiến một khi biết đọc chữ quốc ngữ là biết đọc đúng tiếng Việt và nhờ vậy thanh điệu tiếng Việt ở 3 miền Trung Nam Bắc mỗi ngày một thống nhất.

4° Dòng Tên ngày nay

Với hơn 20000 giáo sĩ, dòng Tên đứng thứ nhì trong số những dòng thuộc đạo Công giáo. Nhưng nếu kể số trường Đại học Cao đẳng và Trung học mà Dòng Tên thiết lập ở 112 nước trên thế giới, dòng này phải được kể là lớn nhất trong địa hạt giáo dục. Những trường do dòng Tên thiết lập đều có danh tiếng quốc tế: Thí dụ như Đại Học Georgetown Mỹ nơi mà Clinton và 2 bà bộ trưởng ngoại giao, Madeleine Allbright của Clinton và Condo. Rice của Bush theo học. Số những nhân vật nổi tiếng trên thế giới trên đủ mọi địa hạt chính trị cũng như văn hóa trong lịch sử cũng như hiện đại được đào tạo ở những trường dòng Tên không sao kể hết được: Chỉ cần kể trong lịch sử Pháp có nhà cách mạng Robespierre và thời đại này có Fidel Castro.

Ngoài địa hạt giáo dục, mấy ông cha dòng Tên cũng có tiếng trong nhiều lãnh vực kể cả chính trị như ở Trung Nam Mỹ với lý thuyết thần đạo giải phóng, đã có hồi bị coi là lý thuyết cộng sản trá hình. Nhân vật nổi tiếng hiện giờ ở Trung Quốc là một ông cha dòng Tên 93 tuổi đưọc Chính phủ Trung Quốc phong làm giám mục Thượng Hải trái với ý của Tòa thánh Vatican.

Kết luận

Nhờ chúa Sãi có óc tương đối rộng rãi cho phép các giáo sĩ dòng Tên được lập cơ sở ở Hội An mà chữ quốc ngữ được ra đời ở đàng Trong. Tiếc là sau đó các vua chúa Việt Nam, nhất là chúa Trịnh đàng Ngoài, vì quá phụ thuộc tư duy Tàu, văn hoá Tàu, nên đã bỏ lỡ nhiều cơ hội tận dụng những kiến thức về khoa học và kỹ thuật của các giáo sĩ dòng Tên như các vua chúa Nhật và Trung Quốc. Nhưng cơ hội lớn nhất đã bị bỏ lỡ là đã không nghĩ dùng chữ quốc ngữ, chỉ có 24 chữ cái, để thay thế chữ Hán, một thứ chữ tượng ý gồm 80 ngàn chữ, khó mà có thể học và nhớ hết được. Chữ Hán chỉ hợp với Trung Quốc, một nước mà mỗi miền nói một thứ tiếng khác nhau chỉ có thể hiểu nhau bằng bút đàm. Nếu biết dùng chữ quốc ngữ ngay từ cách đây gần 400 năm để mọi người dễ dàng biết đọc biết viết, để phổ biến những tư tưởng và những kỹ thuật mới mẻ của Tây phương, thì 2 miền đàng Trong và đàng Ngoài đã trở thành một quốc gia rộng lớn, nói cùng một tiếng Việt thuần nhất, và đất nước được canh tân trước Nhật Bản của thời Minh Trị 250 năm. Việt Nam đã là một nước hùng mạnh nhất nhì Đông Nam Á chứ không như bây giờ vẫn nằm trong vòng cương toả của Tàu về tư duy, kinh tế cũng như chính trị.

Phong Uyen / Dân Luận

Monday, November 29, 2010

DỰ THẢO LUẬT PHÒNG CHỐNG MUA BÁN NGƯỜI CỦA VIỆT NAM (Lần thứ 7)

Dự thảo Luật phòng chống mua bán người (lần thứ 7)
DỰ THẢO LUẬT PHÒNG CHỐNG MUA BÁN NGƯỜI CỦA VIỆT NAM (Lần thứ 7)

Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10;
Quốc hội ban hành Luật Phòng, chống mua bán người.
CHƯƠNG I
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Luật này quy định các biện pháp phòng, chống mua bán người; trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống mua bán người; xác minh, tiếp nhận, bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân bị mua bán; hợp tác quốc tế trong phòng, chống mua bán người.
Điều 2. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Mua bán người được hiểu là một trong các hành vi sau đây:
a) Chuyển giao, tiếp nhận người hoặc tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người để chuyển giao bằng thủ đoạn dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực, bắt cóc, lừa gạt, lạm dụng quyền lực, lợi dụng tình trạng quẫn bách của người khác hoặc bằng các thủ đoạn khác để đổi lấy tiền hoặc lợi ích vật chất khác hoặc nhằm mục đích bóc lột tình dục, bóc lột sức lao động, lấy các bộ phận cơ thể hay vì mục đích vô nhân đạo khác.
b) Chuyển giao, tiếp nhận hoặc tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất để chuyển giao nhằm đổi lấy tiền hoặc lợi ích vật chất khác hoặc nhằm mục đích bóc lột tình dục, bóc lột sức lao động, lấy các bộ phận cơ thể hay vì mục đích vô nhân đạo khác.
2. Nạn nhân là người được xác định bị mua bán trong vụ án mua bán người
Điều 3. Nguyên tắc phòng, chống mua bán người
1. Kết hợp và thực hiện đồng bộ các biện pháp phòng, chống mua bán người trên nguyên tắc lấy phòng ngừa là chính, chú trọng công tác thông tin, giáo dục, truyền thông, tư vấn về phòng, chống mua bán người kết hợp với công tác quản lý về an ninh, trật tự và kiểm soát các hoạt động dễ bị lợi dụng để mua bán người.
2. Phát hiện, ngăn chặn và xử lý nghiêm minh, kịp thời, chính xác các hành vi mua bán người theo quy định của pháp luật.
3. Phát huy vai trò, trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cộng đồng, cơ quan, tổ chức trong đấu tranh phòng, chống mua bán người. Kết hợp chặt chẽ phòng, chống mua bán người với phòng, chống bạo lực gia đình, bất bình đẳng giới, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác.
4. Tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp và không kỳ thị, phân biệt đối xử đối với các nạn nhân.
5. Tăng cường hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế trong phòng, chống mua bán người trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và cùng có lợi, phù hợp với Hiến pháp, pháp luật của Việt Nam và pháp luật quốc tế.
Điều 4. Chính sách của Nhà nước về phòng, chống mua bán người
1. Hằng năm, Nhà nước bố trí ngân sách cho công tác phòng, chống mua bán người.
2. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho những người làm công tác phòng, chống mua bán người.
3. Khuyến khích cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước hợp tác, tài trợ cho hoạt động phòng, chống mua bán người và hỗ trợ nạn nhân ổn định cuộc sống, hoà nhập cộng đồng.
4. Khen thưởng cá nhân, tổ chức có thành tích trong công tác phòng, chống mua bán người; bảo đảm chế độ, chính sách đối với người trực tiếp tham gia phòng, chống mua bán người bị thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ hoặc tài sản theo quy định của pháp luật.
Điều 5. Quyền và nghĩa vụ của nạn nhân, người đang chờ xác minh là nạn nhân
1. Nạn nhân có các quyền và nghĩa vụ sau đây:
a) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền áp dụng các biện pháp bảo vệ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp khác theo quy định của pháp luật;
b) Được hưởng các chế độ hỗ trợ quy định của Luật này;
c) Được xem xét để miễn truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc trách nhiệm hành chính đối với một số hành vi vi phạm cụ thể do mình thực hiện trong quá trình bị mua bán;
d) Cung cấp thông tin liên quan đến việc mua bán người cho cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền;
đ) Các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
2. Người đang chờ xác minh là nạn nhân có các quyền và nghĩa vụ quy định tại các điểm a, b, d và đ khoản 1 Điều này.
Điều 6. Trách nhiệm quản lý nhà nước về phòng, chống mua bán người
1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về phòng, chống mua bán người.
2. Bộ Công an có trách nhiệm giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về phòng, chống mua bán người.
3. Các Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Công an thực hiện quản lý nhà nước về phòng, chống mua bán người.
4. Uỷ ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về phòng, chống mua bán người tại địa phương.
Điều 7. Những hành vi bị cấm
1. Các hành vi mua bán người.
2. Cưỡng bức người khác thực hiện hành vi mua bán người.
3. Trả thù, đe dọa trả thù nạn nhân, người đang chờ xác minh là nạn nhân, người tố giác, người làm chứng, người thân thích của họ hoặc người ngăn chặn hành vi mua bán người.
4. Tiết lộ các thông tin cá nhân của nạn nhân, người đang chờ xác minh là nạn nhân liên quan đến việc bị mua bán khi chưa có sự đồng ý của họ.
5. Cản trở việc tố giác, khai báo và xử lý hành vi mua bán người.
6. Kỳ thị, phân biệt đối xử với nạn nhân.
7. Giả mạo là nạn nhân.
8. Lợi dụng hoạt động phòng, chống mua bán người để trục lợi hoặc thực hiện các hành vi trái pháp luật.
9. Dung túng, bao che, không xử lý hoặc xử lý không đúng quy định của pháp luật đối với hành vi mua bán người.
10. Rửa tiền do phạm tội về mua bán người.
CHƯƠNG II
CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG, CHỐNG MUA BÁN NGƯỜI
Điều 8. Thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống mua bán người
1. Thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống mua bán người nhằm nâng cao nhận thức về trách nhiệm cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức và cộng đồng trong đấu tranh phòng, chống mua bán người, về mối hiểm hoạ của mua bán người, làm cho mọi người đề cao cảnh giác, tích cực tham gia phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh chống mua bán người, chống kỳ thị, phân biệt đối xử với nạn nhân.
2. Nội dung thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống mua bán người bao gồm:
a) Chính sách, pháp luật về phòng, chống mua bán người;
b) Thủ đoạn và tác hại của hành vi mua bán người;
c) Kỹ năng ứng xử trong trường hợp có nghi ngờ về việc mua bán người;
d) Biện pháp, mô hình, kinh nghiệm trong phòng, chống mua bán người;
đ) Trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân và cộng đồng trong phòng, chống mua bán người;
e) Chống kỳ thị, phân biệt đối xử với nạn nhân;
g) Các nội dung khác có liên quan đến phòng, chống mua bán người.
3. Việc thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống mua bán người được thực hiện bằng các phương thức sau đây:
a) Gặp gỡ, nói chuyện trực tiếp;
b) Cung cấp tài liệu tuyên truyền;
c) Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng;
d) Lồng ghép trong việc giảng dạy, học tập tại các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân;
đ) Thông qua hoạt động văn học, nghệ thuật, sinh hoạt cộng đồng và các loại hình văn hoá quần chúng khác;
e) Các phương thức khác.
4. Xây dựng mạng lưới tuyên truyền viên về phòng, chống mua bán người ở cơ sở; huy động sự tham gia tích cực của các đoàn thể xã hội.
5. Chú trọng công tác thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống mua bán người đối với đối tượng là phụ nữ, thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên và những người cư trú tại khu vực biên giới, vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế khó khăn.
Điều 9. Tư vấn về phòng, chống mua bán người
1. Tư vấn về phòng, chống mua bán người bao gồm các nội dung sau đây:
a) Cung cấp kiến thức pháp luật về phòng, chống mua bán người; thông tin về nguy cơ và mối hiểm hoạ mua bán người;
b) Cung cấp thông tin về thủ đoạn mua bán người và hướng dẫn kỹ năng ứng xử trong trường hợp có nghi ngờ về việc mua bán người;
c) Cung cấp những thông tin về quyền, nghĩa vụ của nạn nhân và hướng dẫn cách thức thực hiện các quyền, nghĩa vụ đó.
2. Việc tư vấn phòng, chống mua bán người tập trung vào các đối tượng sau đây:
a) Người có nhu cầu tìm kiếm việc làm hoặc đi du lịch trong nước hoặc ở nước ngoài;
b) Người có nhu cầu kết hôn với người nước ngoài;
c) Người có nhu cầu cho, nhận con nuôi;
d) Người chưa thành niên và người đại diện hợp pháp của họ;
đ) Nạn nhân và thân nhân của họ.
Điều 10. Quản lý về an ninh, trật tự
1. Theo dõi nhân khẩu, hộ khẩu ở địa bàn dân cư thông qua công tác hộ tịch, hộ khẩu; tăng cường kiểm tra nhân khẩu ở địa bàn.
2. Giám sát chặt chẽ sự biến động dân cư trên địa bàn thông qua chế độ đăng ký tạm trú, tạm vắng.
3. Giám sát chặt chẽ các đối tượng có tiền án, tiền sự về mua bán người và các đối tượng có nghi vấn khác trên địa bàn.
4. Quản lý và sử dụng có hiệu quả các thông tin về tàng thư, căn cước, lý lịch tư pháp phục vụ công tác phòng, chống mua bán người.
5. Tăng cường tuần tra, kiểm soát tại các cửa khẩu, khu vực biên giới và trên biển nhằm kịp thời phát hiện, ngăn chặn hành vi mua bán người.
6. Trang bị các phương tiện kỹ thuật hiện đại tại các cửa khẩu quốc tế phục vụ cho việc nhận dạng người và phát hiện nhanh chóng, chính xác các loại giấy tờ, tài liệu giả mạo; nâng cấp các trang thiết bị kiểm soát, kiểm tra tại các chốt kiểm soát, cửa khẩu.
7. Quản lý chặt chẽ công tác cấp giấy tờ tùy thân, giấy tờ có giá trị xuất cảnh, nhập cảnh; ứng dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất, cấp phát, quản lý và kiểm soát các loại giấy tờ tùy thân và giấy tờ có giá trị xuất cảnh, nhập cảnh.
8. Phối hợp chặt chẽ với lực lượng biên phòng và các lực lượng chức năng khác của các nước láng giềng trong việc tuần tra, kiểm soát biên giới nhằm phát hiện, ngăn chặn mua bán người, giải cứu nạn nhân.
Điều 11. Quản lý chặt chẽ các hoạt động kinh doanh, dịch vụ nhằm phòng ngừa việc lợi dụng các hoạt động này để mua bán người
1. Quản lý chặt chẽ các hoạt động cho, nhận con nuôi, hỗ trợ kết hôn có yếu tố nước ngoài, giới thiệu việc làm, đưa người đi lao động, học tập hoặc du lịch ở nước ngoài, kinh doanh khách sạn, nhà nghỉ và các hoạt động kinh doanh dịch vụ khác dễ bị lợi dụng để mua bán người theo quy định của pháp luật.
2. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối với các hoạt động quy định tại khoản 1 Điều này nhằm phát hiện, ngăn chặn việc lợi dụng các hoạt động này để mua bán người.
Điều 12. Lồng ghép nội dung phòng, chống mua bán người vào các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, các chương trình phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội
1. Phòng, chống mua bán người là một trong những mục tiêu ưu tiên của các chương trình phát triển kinh tế - xã hội.
2. Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành, chính quyền địa phương lồng ghép nội dung phòng, chống mua bán người vào trong các chương trình xóa đói, giảm nghèo, hỗ trợ tín dụng cho các hộ gia đình khó khăn để phát triển kinh tế, đào tạo nghề, giải quyết việc làm, chương trình phòng, chống tội phạm, phòng, chống mại dâm và các chương trình phát triển kinh tế - xã hội khác.
Điều 13. Phát hiện, tố giác tội phạm về mua bán người
1. Cá nhân khi phát hiện hành vi mua bán người có trách nhiệm tố giác với cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án, Cảnh sát biển, Bộ đội biên phòng, Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức khác. Nếu tố giác bằng miệng thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản và có chữ ký của người tố giác.
2. Cơ quan, tổ chức khi phát hiện hoặc nhận được tố giác về tội phạm mua bán người có trách nhiệm kịp thời báo tin về tội phạm cho Cơ quan điều tra bằng văn bản, giữ bí mật về nhân thân người tố giác và áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ người tố giác theo quy định của pháp luật khi người đó có nguy cơ bị tấn công.
Điều 14. Phát hiện tội phạm về mua bán người thông qua hoạt động kiểm tra, thanh tra
1. Các tổ chức hoạt động cho, nhận con nuôi, hỗ trợ kết hôn có yếu tố nước ngoài, giới thiệu việc làm, đưa người đi lao động, học tập hoặc du lịch ở nước ngoài, cơ sở kinh doanh khách sạn, nhà nghỉ và các hoạt động kinh doanh dịch vụ khác dễ bị lợi dụng để mua bán người phải tự kiểm tra việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình; nếu phát hiện có hành vi mua bán người thì phải kịp thời báo tin bằng văn bản cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
2. Cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thông qua hoạt động kiểm tra, thanh tra có trách nhiệm phát hiện tội phạm về mua bán người và kiến nghị Cơ quan điều tra xem xét, khởi tố vụ án mua bán người theo quy định của pháp luật.
Điều 15. Phát hiện, ngăn chặn tội phạm về mua bán người thông qua hoạt động nghiệp vụ phòng, chống tội phạm
1. Lực lượng thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tội phạm về mua bán người trong Công an nhân dân, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển có thẩm quyền và trách nhiệm thực hiện một số hoạt động sau đây:
a) Chủ trì, phối hợp với các cơ quan hữu quan đấu tranh phòng, chống tội phạm về mua bán người tại các địa bàn biên giới, trên biển và nội địa;
b) Áp dụng các biện pháp nghiệp vụ trinh sát cần thiết để phát hiện, ngăn chặn tội phạm về mua bán người;
c) Yêu cầu cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan phục vụ cho việc điều tra, phát hiện, ngăn chặn tội phạm về mua bán người, bảo vệ nạn nhân, người đang chờ xác minh là nạn nhân, người làm chứng và những người khác theo quy định của Luật này và các quy định pháp luật khác có liên quan;
d) Áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ nạn nhân, người đang chờ xác minh là nạn nhân, người tố giác, người làm chứng cũng như người thân thích của họ khi những người này bị đe dọa đến tính mạng, sức khoẻ, bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, tài sản.
2. Cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm thực hiện nghiêm chỉnh yêu cầu của lực lượng phòng, chống tội phạm về mua bán người quy định tại điểm c khoản 1 Điều này.
3. Chính phủ quy định điều kiện, thủ tục, thẩm quyền áp dụng các biện pháp quy định tại điểm b khoản 1 Điều này.
Điều 16. Giải quyết tin báo, tố giác tội phạm về mua bán người hoặc kiến nghị khởi tố vụ án về mua bán người
1. Trong thời hạn không quá hai mươi ngày, kể từ ngày nhận được tin báo, tố giác tội phạm về mua bán người hoặc kiến nghị khởi tố vụ án về mua bán người, cơ quan điều tra trong phạm vi trách nhiệm của mình phải tiến hành kiểm tra, xác minh nguồn tin và quyết định việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự về mua bán người.
Trường hợp vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn giải quyết tin báo, tố giác hoặc kiến nghị khởi tố có thể dài hơn nhưng không quá hai tháng.
2. Kết quả giải quyết tin báo, tố giác tội phạm về mua bán người hoặc kiến nghị khởi tố vụ án về mua bán người phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và thông báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân đã báo tin, tố giác hoặc kiến nghị khởi tố biết.
3. Trong quá trình giải quyết tin báo, tố giác tội phạm về mua bán người, cơ quan điều tra có trách nhiệm giữ bí mật về nhân thân người tố giác, áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ an toàn cho người tố giác và người thân thích của họ khi những người này bị đe dọa đến tính mạng, sức khoẻ, bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, tài sản.
Điều 17. Khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án mua bán người
1. Việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án về mua bán người được thực hiện theo quy định của Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự.
2. Trong quá trình giải quyết vụ án về mua bán người, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có trách nhiệm áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ người bị hại, người làm chứng và người thân thích của họ khi những người này bị đe dọa đến tính mạng, sức khoẻ, bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, tài sản theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và của Luật này.
CHƯƠNG III
XÁC MINH NẠN NHÂN. TIẾP NHẬN VÀ BẢO VỆ NẠN NHÂN, NGƯỜI ĐANG CHỜ XÁC MINH LÀ NẠN NHÂN
MỤC I. TIẾP NHẬN NẠN NHÂN VÀ NGƯỜI ĐANG CHỜ XÁC MINH LÀ NẠN NHÂN. XÁC MINH NẠN NHÂN.
Điều 18. Tiếp nhận nạn nhân, người đang chờ xác minh là nạn nhân bị mua bán trong nước hoặc bị mua bán ra nước ngoài tự trở về
1. Nạn nhân, người đang chờ xác minh là nạn nhân bị mua bán trong nước hoặc bị mua bán ra nước ngoài tự trở về có thể đến khai báo tại Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi gần nhất.
Cơ quan, tổ chức tiếp nhận khai báo có trách nhiệm chuyển người đó đến Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi cơ quan, tổ chức có trụ sở.
2. Uỷ ban nhân dân cấp xã thực hiện việc tiếp nhận nạn nhân, người đang chờ xác minh là nạn nhân quy định tại khoản 1 Điều này; hỗ trợ ban đầu trong trường hợp cần thiết và làm thủ tục chuyển giao những người này cho Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi họ cư trú trước khi bị mua bán hoặc cho cơ sở bảo trợ xã hội nếu họ không có nơi cư trú. Trường hợp họ có nguyện vọng tự trở về nơi cư trú, thì hỗ trợ tiền tàu xe, tiền ăn trong thời gian đi đường.
3. Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi nạn nhân, người đang chờ xác minh là nạn nhân cư trú trước khi bị mua bán và cơ sở bảo trợ xã hội đã tiếp nhận họ thực hiện việc phân loại đối tượng. Đối với những người có giấy tờ xác định là nạn nhân thì hướng dẫn họ làm thủ tục nhận các chế độ hỗ trợ quy định tại Điều 26 của Luật này. Trường hợp chưa có giấy tờ xác định là nạn nhân thì làm thủ tục đề nghị cơ quan có thẩm quyền xác minh theo quy định tại Điều 20 của Luật này.
Điều 19. Tiếp nhận nạn nhân, người đang chờ xác minh là nạn nhân bị mua bán ra nước ngoài được Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển giải cứu hoặc tự trở về qua biên giới
1. Nạn nhân, người đang chờ xác minh là nạn nhân bị mua bán ra nước ngoài có quốc tịch Việt Nam được Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển giải cứu hoặc tự trở về qua biên giới được Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển đưa về cơ sở tiếp nhận nạn nhân.
2. Cơ sở tiếp nhận nạn nhân thực hiện việc tiếp nhận nạn nhân, người đang chờ xác minh là nạn nhân quy định tại khoản 1 Điều này; thực hiện hỗ trợ ban đầu và làm các thủ tục theo quy định tại khoản 1 Điều 42 của Luật này.
Điều 20. Trình tự, thủ tục xác minh nạn nhân
1. Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đang chờ xác minh là nạn nhân cư trú trước khi bị mua bán và cơ sở bảo trợ xã hội đã tiếp nhận người đang chờ xác minh là nạn nhân có trách nhiệm thu thập thông tin về người đang chờ xác minh là nạn nhân và làm thủ tục đề nghị Công an cấp huyện xác minh nạn nhân.
2. Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu của Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc cơ sở bảo trợ xã hội, Công an cấp huyện có trách nhiệm xác minh và trả lời bằng văn bản. Đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn xác minh có thể kéo dài hơn nhưng không quá 60 ngày.
Điều 21. Xác minh, tiếp nhận nạn nhân từ nước ngoài trở về qua cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài hoặc theo thoả thuận song phương
1. Việc xác minh, tiếp nhận nạn nhân từ nước ngoài trở về qua cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài được thực hiện như sau:
a) Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài tiếp nhận và xử lý thông tin, tài liệu về nạn nhân và phối hợp với Bộ Công an trong việc xác minh nhân thân của nạn nhân, cấp giấy tờ cần thiết, làm thủ tục đưa họ về nước;
b) Bộ Công an tiếp nhận và chuyển giao nạn nhân cho cơ sở tiếp nhận nạn nhân;
c) Cơ sở tiếp nhận nạn nhân thực hiện việc tiếp nhận và hỗ trợ ban đầu cho nạn nhân theo quy định tại khoản 1 Điều 42 của Luật này.
2. Việc tiếp nhận nạn nhân bị mua bán ra nước ngoài có đủ điều kiện trở về Việt Nam theo khuôn khổ thoả thuận song phương được thực hiện theo quy định của thoả thuận song phương đó.
Điều 22. Giấy tờ, tài liệu xác định nạn nhân
Giấy tờ, tài liệu xác định nạn nhân là một trong các giấy tờ, tài liệu sau:
1. Giấy tờ của Cơ quan điều tra hoặc các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra xác nhận người đó là người bị hại trong vụ án mua bán người.
2. Bản kết luận điều tra của Cơ quan điều tra.
3. Bản cáo trạng của Viện kiểm sát.
4. Bản án, quyết định của Toà án.
5. Giấy tờ, tài liệu do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cung cấp đã được cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài hợp pháp hoá lãnh sự hoặc Bộ Ngoại Giao Việt Nam chứng nhận lãnh sự chứng minh người đó là nạn nhân.
MỤC II. GIẢI CỨU NẠN NHÂN, NGƯỜI ĐANG CHỜ XÁC MINH LÀ NẠN NHÂN. BẢO VỆ NẠN NHÂN, NGƯỜI ĐANG CHỜ XÁC MINH LÀ NẠN NHÂN VÀ NGƯỜI THÂN THÍCH CỦA HỌ
Điều 23. Giải cứu, bảo vệ khẩn cấp
Khi có cơ sở cho rằng một người bị mua bán thì cơ quan quy định tại khoản 1, Điều 15 của Luật này có trách nhiệm áp dụng các biện pháp cần thiết để giải cứu; trong trường hợp người đó có nguy cơ bị gây thiệt hại tính mạng, sức khoẻ thì áp dụng các biện pháp bảo vệ khẩn cấp.
Điều 24. Bảo vệ an toàn cho nạn nhân, người đang chờ xác minh là nạn nhân và người thân thích của họ
1. Các biện pháp bảo vệ an toàn cho nạn nhân, người đang chờ xác minh là nạn nhân và người thân thích của họ bao gồm:
a) Cung cấp nơi tạm lánh khi có nguy cơ bị đe dọa đến tính mạng, sức khỏe của họ;
b) Bố trí lực lượng bảo vệ tại nơi ở, nơi làm việc, học tập hoặc tại phiên tòa theo quy định của pháp luật;
c) Thay đổi chỗ ở và giữ bí mật thông tin về nơi ở, nơi làm việc, học tập của nạn nhân, người đang chờ xác minh là nạn nhân và người thân thích của họ;
d) Răn đe, cảnh cáo, vô hiệu hóa đối tượng có hành vi gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ của nạn nhân, người đang chờ xác minh là nạn nhân và người thân thích của họ;
đ) Các biện pháp khác theo quy định của pháp luật.
2. Khi xét thấy cần thiết hoặc theo yêu cầu của nạn nhân, người đang chờ xác minh là nạn nhân thì cơ quan có thẩm quyền có thể áp dụng một hoặc nhiều biện pháp quy định tại khoản 1 Điều này để bảo vệ an toàn cho nạn nhân, người đang chờ xác minh là nạn nhân và người thân thích của họ.
Điều 25. Bảo vệ bí mật cá nhân trong quá trình tố tụng
1. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, người tiến hành tố tụng, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác không được tiết lộ các thông tin cá nhân của nạn nhân do mình biết được trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, trừ trường hợp có sự đồng ý của nạn nhân.
2. Tòa án có thể xem xét, quyết định xét xử kín đối với vụ án mua bán người theo yêu cầu của nạn nhân.
CHƯƠNG IV
HỖ TRỢ NẠN NHÂN, NGƯỜI ĐANG CHỜ XÁC MINH LÀ NẠN NHÂN
Điều 26. Chế độ hỗ trợ
1. Người đang chờ xác minh là nạn nhân quy định tại các điều 18, 19 và 21 của Luật này và trẻ em đi cùng được hưởng chế độ hỗ trợ ban đầu bao gồm: hỗ trợ các nhu cầu thiết yếu, hỗ trợ y tế trong trường hợp khẩn cấp, hỗ trợ tâm lý.
2. Nạn nhân là người có quốc tịch Việt Nam, người không quốc tịch có nơi thường trú ở Việt Nam được hưởng các chế độ hỗ trợ sau đây:
a) Hỗ trợ các nhu cầu thiết yếu;
b) Hỗ trợ y tế;
c) Hỗ trợ tâm lý;
d) Trợ giúp pháp lý;
đ) Hỗ trợ học văn hóa, học nghề;
e) Trợ cấp khó khăn ban đầu và hỗ trợ vay vốn.
3. Nạn nhân là người nước ngoài bị mua bán tại Việt Nam được hưởng các chế độ hỗ trợ quy định tại các điểm a, b khoản 2 Điều này.
4. Nạn nhân là trẻ em được hưởng các chế độ hỗ trợ quy định tại các điểm a, b, c, d và đ của khoản 2 Điều này.
Điều 27. Hỗ trợ các nhu cầu thiết yếu
Trong trường hợp cần thiết, nạn nhân, người đang chờ xác minh là nạn nhân được bố trí chỗ ở tạm thời, được hỗ trợ về ăn, mặc và các vật dụng cá nhân cần thiết khác. Nếu họ có nguyện vọng trở về địa phương thì được hỗ trợ tiền tàu xe và tiền ăn trong thời gian đi đường.
Điều 28. Hỗ trợ y tế
Trong trường hợp nạn nhân, người đang chờ xác minh là nạn nhân cần được điều trị để phục hồi sức khoẻ thì được xem xét hỗ trợ chi phí khám, chữa bệnh.
Điều 29. Hỗ trợ tâm lý
Nạn nhân, người đang chờ xác minh là nạn nhân được hỗ trợ về tâm lý ngay sau khi được giải cứu, tiếp nhận và trong thời gian lưu trú tại cơ sở tiếp nhận hoặc cơ sở hỗ trợ nạn nhân.
Điều 30. Trợ giúp pháp lý
1. Nạn nhân được trợ giúp pháp lý tại các Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước và các tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý.
2. Phạm vi, hình thức, thủ tục đề nghị trợ giúp pháp lý được thực hiện theo các quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý.
Điều 31. Hỗ trợ học văn hóa, học nghề
1. Nạn nhân là trẻ em, nếu tiếp tục đi học thì được hỗ trợ tiền học phí, tiền mua sách giáo khoa và đồ dùng học tập trong năm học đầu tiên.
2. Nạn nhân khi trở về địa phương thì được xem xét, hỗ trợ học nghề. Việc tổ chức dạy nghề do hệ thống các Trung tâm dạy nghề tại địa phương thực hiện.
Điều 32. Trợ cấp khó khăn ban đầu và hỗ trợ vay vốn
1. Nạn nhân khi trở về địa phương nếu thuộc hộ nghèo hoặc hoàn cảnh gia đình khó khăn thì được hỗ trợ một lần tiền trợ cấp khó khăn ban đầu.
2. Nạn nhân có nhu cầu vay vốn để sản xuất, kinh doanh thì được xem xét, tạo điều kiện vay vốn từ Ngân hàng Chính sách xã hội, Quỹ hỗ trợ phụ nữ nghèo, Quỹ hỗ trợ nạn nhân theo quy định của pháp luật.
3. Bộ Tài chính phối hợp Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực hiện quy định tại khoản 1 Điều này.
CHƯƠNG V
HỢP TÁC QUỐC TẾ TRONG PHÒNG, CHỐNG MUA BÁN NGƯỜI
Điều 33. Nguyên tắc hợp tác quốc tế
Nhà nước Việt Nam thực hiện chính sách hợp tác quốc tế đa phương và song phương trong lĩnh vực phòng, chống mua bán người trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia với các nước trong khu vực và các nước khác trên thế giới; khuyến khích các tổ chức quốc tế, tổ chức, cá nhân nước ngoài hợp tác với các cơ quan, tổ chức của Việt Nam trong hoạt động phòng, chống mua bán người.
Điều 34. Thực hiện hợp tác quốc tế
1. Trên cơ sở các quy định của Luật này và các điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên, các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thực hiện các chương trình hợp tác với các cơ quan hữu quan của các nước, các tổ chức quốc tế, tổ chức, cá nhân nước ngoài về tăng cường năng lực pháp luật, thông tin, công nghệ và đào tạo về phòng, chống mua bán người.
2. Việc phối hợp giữa các cơ quan hữu quan của Việt Nam với nước có liên quan để giải quyết vụ việc cụ thể về mua bán người phải tuân theo các quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam và nước có liên quan là thành viên hoặc theo thoả thuận trực tiếp giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ nước có liên quan.
Trong trường hợp Việt Nam và nước có liên quan không cùng tham gia điều ước quốc tế đa phương hoặc chưa ký với nhau điều ước quốc tế song phương thì các cơ quan tư pháp của Việt Nam trong khuôn khổ pháp luật và thực tiễn của mình, được thoả thuận trực tiếp với cơ quan tư pháp của nước có liên quan trong việc điều tra, truy tố, xét xử tội phạm về mua bán người.
Điều 35. Hợp tác quốc tế trong việc giải cứu và hồi hương nạn nhân
1. Nhà nước Việt Nam tạo điều kiện để các cơ quan chức năng của Việt Nam hợp tác với các cơ quan hữu quan của nước khác trong việc giải cứu, bảo vệ nạn nhân trong các vụ án về mua bán người.
2. Nhà nước Việt Nam thỏa thuận và tạo điều kiện thuận lợi, nhanh chóng tiến hành hồi hương nạn nhân trở về nước mà người đó mang quốc tịch; áp dụng các biện pháp thích hợp để thực hiện việc hồi hương theo đúng trình tự, thủ tục, bảo đảm an toàn tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của nạn nhân.
Điều 36. Tương trợ tư pháp và dẫn độ
Nhà nước Việt Nam dành ưu tiên cho nước ký kết điều ước quốc tế song phương với Việt Nam sự tương trợ tư pháp trong điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm về mua bán người.
Việc tương trợ tư pháp và dẫn độ được thực hiện theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và các quy định pháp luật của Việt Nam.
CHƯƠNG VI
TRÁCH NHIỆM CỦA CÁ NHÂN, GIA ĐÌNH, CƠ QUAN, TỔ CHỨC TRONG ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG MUA BÁN NGƯỜI
Điều 37. Trách nhiệm của cá nhân
1. Tham gia các hoạt động phòng ngừa mua bán người.
2. Kịp thời ngăn chặn, tố giác tội phạm về mua bán người với cơ quan, tổ chức theo quy định tại khoản 1 Điều 13 của Luật này.
3. Tham gia các hoạt động hỗ trợ nạn nhân.
4. Thực hiện quy định khác của pháp luật về phòng, chống mua bán người.
Điều 38. Trách nhiệm của gia đình
1. Tạo môi trường sống lành mạnh trong gia đình; giáo dục, nhắc nhở thành viên của gia đình thực hiện quy định của pháp luật về phòng, chống mua bán người.
2. Thông tin cho thành viên của gia đình các thủ đoạn của tội phạm về mua bán người và hướng dẫn kỹ năng ứng xử khi có nghi ngờ về việc mua bán người.
3. Can ngăn, ngăn chặn thành viên của gia đình tham gia vào hoạt động mua bán người.
4. Chăm sóc, giúp đỡ nạn nhân là thành viên của gia đình để họ hòa nhập cuộc sống gia đình và cộng đồng.
5. Động viên nạn nhân là thành viên của gia đình hợp tác với các cơ quan có thẩm quyền trong phòng, chống tội phạm về mua bán người.
6. Phối hợp với nhà trường, cơ quan, tổ chức và cộng đồng dân cư trong phòng, chống mua bán người.
Điều 39. Trách nhiệm của nhà trường và các cơ sở giáo dục, đào tạo khác thuộc hệ thống giáo dục quốc dân
1. Thực hiện việc lồng ghép kiến thức phòng, chống mua bán người vào chương trình giáo dục, đào tạo phù hợp với yêu cầu của từng cấp học, ngành học; tổ chức các hoạt động ngoại khoá tuyên truyền về phòng, chống mua bán người.
2. Tiếp nhận, tạo điều kiện thuận lợi để nạn nhân được học văn hoá, học nghề.
3. Tạo môi trường thân thiện để học sinh, sinh viên, học viên là nạn nhân hoà nhập cộng đồng.
4. Phối hợp với gia đình, cơ quan, tổ chức thực hiện các biện pháp phòng, chống mua bán người theo quy định của pháp luật.
Điều 40. Trách nhiệm của các tổ chức, cơ sở kinh doanh dịch vụ
1. Các tổ chức hoạt động cho, nhận con nuôi, hỗ trợ kết hôn có yếu tố nước ngoài, giới thiệu việc làm, đưa người đi lao động, học tập hoặc du lịch ở nước ngoài, cơ sở kinh doanh khách sạn, nhà nghỉ và các lĩnh vực kinh doanh dịch vụ khác dễ bị lợi dụng để mua bán người có trách nhiệm:
a) Ký hợp đồng lao động bằng văn bản với người lao động; đăng ký lao động với cơ quan quản lý lao động địa phương;
b) Nắm thông tin về khách hàng và thông báo cho cơ quan có thẩm quyền khi có yêu cầu để phối hợp quản lý, kiểm soát chặt chẽ;
c) Cam kết chấp hành quy định của pháp luật về phòng, chống mua bán người; không tham gia hoặc tạo điều kiện cho cho hoạt động mua bán người, không để xảy ra tình trạng mua bán người ở cơ sở mình;
d) Tư vấn cho khách hàng về các vấn đề liên quan đến phòng, chống mua bán người.
2. Người lao động làm việc tại các cơ sở kinh doanh, dịch vụ quy định tại khoản 1 Điều này phải chấp hành quy định về quản lý hộ khẩu và ký cam kết không vi phạm pháp luật về phòng, chống mua bán người.
Điều 41. Trách nhiệm của các cơ quan thông tin đại chúng
1. Thông tin kịp thời, chính xác chính sách, pháp luật về phòng, chống mua bán người; phản ánh về tình hình tội phạm mua bán người và công tác phòng, chống mua bán người; giới thiệu các gương điển hình trong đấu tranh phòng, chống mua bán người; những mô hình phòng, chống mua bán người có hiệu quả.
2. Giữ bí mật thông tin cá nhân của nạn nhân, bí mật điều tra, truy tố, xét xử các vụ án mua bán người trong quá trình đưa tin bài theo quy định của pháp luật.
3. Lồng ghép nội dung phòng, chống mua bán người với các chương trình thông tin, truyền thông khác.
4. Ưu tiên về thời điểm, thời lượng phát sóng thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống mua bán người trên đài phát thanh, đài truyền hình; về dung lượng và vị trí đăng trên báo in, báo hình, báo điện tử theo quy định của pháp luật.
Điều 42. Trách nhiệm của cơ sở tiếp nhận, hỗ trợ nạn nhân, cơ sở bảo trợ xã hội
1. Cơ sở tiếp nhận nạn nhân có trách nhiệm:
a) Tiếp nhận nạn nhân và người đang chờ xác minh là nạn nhân bị mua bán từ nước ngoài trở về;
b) Thực hiện việc hỗ trợ ban đầu cho nạn nhân, người đang chờ xác minh là nạn nhân. Nếu họ có nguyện vọng tự trở về nơi cư trú thì hỗ trợ tiền tàu xe, tiền ăn khi đi đường. Trường hợp cần bố trí chỗ ở tạm thời cho họ thì thời hạn lưu trú không quá 15 ngày, kể từ ngày tiếp nhận;
c) Làm thủ tục chuyển giao nạn nhân, người đang chờ xác minh là nạn nhân cho Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi họ cư trú trước khi bị mua bán, cơ sở hỗ trợ nạn nhân hoặc cho cơ sở bảo trợ xã hội khi hết thời hạn lưu trú.
2. Cơ sở hỗ trợ nạn nhân có trách nhiệm:
a) Tiếp nhận và cung cấp nơi lưu trú cho nạn nhân. Thời hạn lưu trú của nạn nhân không quá 30 ngày, kể từ ngày tiếp nhận. Đối với nạn nhân cần hỗ trợ về sức khoẻ, y tế, trẻ em có hoàn cảnh gia đình khó khăn thì thời gian lưu trú có thể dài hơn nhưng không quá 60 ngày;
b) Thực hiện chế độ hỗ trợ các nhu cầu thiết yếu, chăm sóc y tế và hỗ trợ tâm lý cho nạn nhân sau khi tiếp nhận phù hợp với lứa tuổi, giới tính, nguyện vọng của họ và khả năng đáp ứng của cơ sở;
c) Giáo dục kỹ năng sống, hướng nghiệp cho nạn nhân;
d) Đánh giá khả năng hòa nhập cộng đồng của nạn nhân, cung cấp các thông tin về chính sách, dịch vụ hỗ trợ nạn nhân tại cộng đồng;
đ) Cung cấp thông tin cần thiết cho các cơ quan chức năng để đấu tranh phòng, chống tội phạm về mua bán người.
3. Cơ sở bảo trợ xã hội có trách nhiệm:
a) Tiếp nhận nạn nhân, người đang chờ xác minh là nạn nhân do Ủy ban nhân dân cấp xã, cơ sở tiếp nhận nạn nhân hoặc cơ sở hỗ trợ nạn nhân chuyển đến;
b) Làm thủ tục đề nghị cơ quan có thẩm quyền xác minh nạn nhân theo quy định tại Điều 35 của Luật này;
c) Hướng dẫn nạn nhân làm thủ tục nhận các chế độ hỗ trợ quy định tại Điều 26 của Luật này.
Điều 43. Trách nhiệm của Bộ Công an
1. Trong việc thực hiện quản lý nhà nước về phòng, chống mua bán người:
a) Đề xuất với Chính phủ, Quốc hội về chiến lược xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến phòng, chống mua bán người;
b) Xây dựng và trình cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền văn bản quy phạm pháp luật, chương trình, kế hoạch về phòng, chống mua bán người;
c) Chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành hữu quan và Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật, chương trình, kế hoạch về phòng, chống mua bán người;
d) Chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức hữu quan ban hành và tổ chức thực hiện quy định về bồi dưỡng cán bộ làm công tác phòng, chống mua bán người;
đ) Chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức hữu quan thực hiện chế độ báo cáo thống kê về phòng, chống mua bán người; tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, nhân rộng các mô hình phòng, chống mua bán người;
e) Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về phòng, chống mua bán người;
g) Thực hiện hợp tác quốc tế về phòng, chống mua bán người.
2. Trong công tác đấu tranh phòng, chống mua bán người:
a) Bố trí lực lượng thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm về mua bán người;
b) Thực hiện quản lý về an ninh, trật tự để phòng ngừa tội phạm về mua bán người;
c) Phát động phong trào quần chúng tham gia phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh chống tội phạm, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội;
d) Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.
Điều 44. Trách nhiệm của Bộ Quốc phòng
1. Chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành tổ chức tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân ở địa bàn khu vực biên giới tham gia các hoạt động phòng, chống mua bán người.
2. Bố trí lực lượng thực hiện nhiệm vụ phòng, chống mua bán người tại khu vực biên giới và trên biển.
3. Thực hiện các biện pháp kiểm soát biên giới, cửa khẩu nhằm ngăn chặn việc đưa người ra nước ngoài.
4. Thực hiện hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống mua bán người.
5. Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.
Điều 45. Trách nhiệm của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
1. Chủ trì công tác hỗ trợ nạn nhân, người đang chờ xác minh là nạn nhân.
2. Xây dựng và trình cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các chính sách hỗ trợ nạn nhân.
3. Chỉ đạo việc lồng ghép nội dung phòng, chống mua bán người vào các chương trình xoá đói giảm nghèo, đào tạo nghề, giải quyết việc làm.
4. Quản lý, hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra công tác giới thiệu việc làm, đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng để phòng ngừa tội phạm về mua bán người.
Điều 46. Trách nhiệm của Bộ Ngoại giao
1. Thực hiện công tác bảo hộ đối với công dân Việt Nam là nạn nhân, người đang chờ xác minh là nạn nhân thông qua các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài.
2. Phối hợp với cơ quan hữu quan trong nước và nước ngoài trong việc xác minh, xác định nạn nhân, làm thủ tục đưa nạn nhân về nước.
3. Phối hợp với Bộ Công an và cơ quan hữu quan trong hợp tác quốc tế về phòng, chống mua bán người.
Điều 47. Trách nhiệm của Bộ Tài chính
1. Bố trí ngân sách thực hiện nhiệm vụ phòng, chống mua bán người cho các bộ, ngành và địa phương theo phân cấp ngân sách nhà nước hiện hành.
2. Hướng dẫn các bộ, ngành, địa phương lập dự toán kinh phí phòng, chống mua bán người.
3. Thực hiện việc kiểm tra, quản lý và sử dụng kinh phí theo đúng mục đích.
4. Chủ trì nghiên cứu đề xuất cấp có thẩm quyền các biện pháp phù hợp nhằm huy động sự đóng góp kinh phí từ các nguồn khác nhau trong và ngoài nước.
Điều 48. Trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân
1. Viện kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân có trách nhiệm:
a) Thực hiện việc truy tố, xét xử nhanh chóng, kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật các vụ án về mua bán người;
b) Trong quá trình truy tố, xét xử vụ án về mua bán người, Viện kiểm sát và Toà án có nhiệm vụ tìm ra nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa;
c) Áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ người làm chứng, người bị hại và người thân thích của họ trong các vụ án về mua bán người.
2. Viện kiểm sát nhân dân tối cao chủ trì, phối hợp với Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao và cơ quan hữu quan thực hiện việc thống kê tội phạm về mua bán người.
Điều 49. Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp
1. Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm:
a) Lồng ghép nội dung phòng, chống mua bán người vào trong các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương;
b) Tổ chức thực hiện công tác phòng, chống mua bán người ở địa phương;
c) Lập dự toán và trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định ngân sách cho công tác phòng, chống mua bán người ở địa phương.
2. Ngoài việc thực hiện quy định tại khoản 1 Điều này, Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm:
a) Tiếp nhận, hỗ trợ ban đầu cho nạn nhân, người đang chờ xác minh là nạn nhân và làm các thủ tục cần thiết theo quy định tại các điều 18 và 20 của Luật này;
b) Hỗ trợ, tạo điều kiện cho nạn nhân sớm hòa nhập cộng đồng;
c) Theo dõi và thông báo định kỳ cho Phòng Lao động, Thương binh và Xã hội về tình hình sinh sống của nạn nhân trên địa bàn; có biện pháp hỗ trợ cần thiết khi nạn nhân có yêu cầu.
Điều 50. Trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên
1. Tổ chức và phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền tuyên truyền, giáo dục nhân dân kiến thức pháp luật về phòng, chống mua bán người; vận động nhân dân chấp hành pháp luật về phòng, chống mua bán người; tích cực phát hiện, tố giác tội phạm về mua bán người.
2. Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những biện pháp cần thiết nhằm phát hiện và phòng ngừa mua bán người.
3. Phòng ngừa, ngăn chặn người của tổ chức mình và mọi công dân tham gia vào hoạt động mua bán người.
4. Tham gia công tác tư vấn về phòng, chống mua bán người và các hoạt động hỗ trợ, bảo vệ động viên, giúp đỡ nạn nhân hòa nhập cộng đồng.
5. Giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống mua bán người.
Điều 51. Trách nhiệm của Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
1. Thực hiện trách nhiệm quy định tại Điều 50 của Luật này.
2. Tuyên truyền, giáo dục, vận động đoàn viên, hội viên nâng cao ý thức chấp hành pháp luật về phòng, chống mua bán người; tích cực phát hiện, tố giác tội phạm về mua bán người.
3. Tham gia xây dựng mạng lưới tuyên truyền viên về phòng, chống mua bán người ở cơ sở.
4. Tham gia công tác tư vấn về phòng, chống mua bán người và các hoạt động vay vốn, dạy nghề, tạo việc làm cho nạn nhân là phụ nữ, đoàn viên thanh niên .
CHƯƠNG VII
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 52. Hiệu lực thi hành
Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày ...... tháng ...... năm 20......
Điều 53. Hướng dẫn thi hành
Chính phủ quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các điều, khoản được giao trong Luật; hướng dẫn những nội dung cần thiết khác của Luật này để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước.
Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá ....., kỳ họp thứ ..... thông qua ngày ....... tháng ...... năm 20.....
CHỦ TỊCH QUỐC HỘI




Nguyễn Phú Trọng

Thursday, November 18, 2010

Lại Câu Chuyện Bùn Đỏ: Cao Bằng

TS Mai Thanh Truyết


Đúng một tháng sau tai nạn thảm khốc ở Hungary do một bức tường chắn của một trong 10 hồ chứa bùn đỏ , phế thải của việc khai thác bauxite bị bể ngày 4 tháng 10, tin tức từ Việt Nam thông báo là vào đêm mùng bốn rạng mùng năm tháng 11, 2010, cơn “lũ” bùn đỏ kéo theo hàng vạn khối bùn đỏ từ thượng nguồn đổ xuống. Bùn nầy là phế thải từ việc tuyển rửa quặng của xí nghiệp khai thác quặng sắt Nà Lũng thuộc công ty khoáng sản luyện kim Cao Bằng, tức công ty TKV, cũng là công ty đang thực hiện việc khai thác bauxite tại cao nguyên Trung phần Việt Nam.

Đây là một sự kiện đã được tiên liệu trong hầu hết các công cuộc phát triển của Việt Nam qua việc khai thác khoáng sản cũng như xây dựng các đập thủy điện và các công trình phát triển khác. Tiên liệu vấn nạn môi trường sẽ xảy ra là một “logic tất yếu” vì một nguyên nhân căn bản chính là hầu hết dự án khai triển ở Việt Nam đều không có nghiên cứu tác động môi trường (Environmental Assessment Impacts-EAI), điều đã được ghi rõ ràng trong Luật Môi Trường Việt Nam (1993) và Luật Đầu tư trước khi cung cấp giấy phép xây dựng dự án…

Chúng ta đã từng nghe và thấy thảm nạn đã xảy ra cho các đập thủy điện trên các sông ngòi ở miền Trung bị bể hay xả nước vô tội vạ làm ngập nhiều làng xóm, thị xã từ nhiều năm qua, mỗi lần mùa mưa đến…

Chúng ta đã từng nghe và thấy dòng sông Thị Vải hầu như hoàn toàn bị ô nhiễm từ năm 1997 do công ty Vedan, ngay sau khi bắt đầu khai thác bột ngọt từ năm 1994. Qua mốc ngoặt, qua bao che v.v…tất cả đều êm xuôi mặc dù nước thải độc hại đã được thải hồi ngay sau khi sản xuất những mẽ đầu tiên. Năm 2007, chúng tôi đã nêu lên vấn nạn nầy, và đã được “phản hồi” bằng những lời lẽ cho là bôi bác chế độ! Mãi đến năm 2008, Công ty Vedan “mới” bị khám phá là có một đường ống “bí mật” xả nước thải thắng vào sông vào ban đêm từ hàng chục năm qua…

Và sự kiện tương tự đã diễn ra tại một công ty khai thác quặng sắt ở Cao Bằng ngày hôm nay…

Vài thông tin về quặng sắt

Sắt có công thức hóa học là Fe, là một thành phần kim loại chiếm 5% của vỏ trái đất. Khi nguyên chất, sắt có màu xẩm đen goi là màu xám bạc kim loại (silvery-gray metal). Đây là một kim loại rất dễ bị oxid hóa còn gọi là rỉ sét và biến thành màu đỏ giống như bùn đỏ trong công nghệ khái thác quặng sắt hay bauxite. Các màu đỏ, cam, hay vàng thường thấy trong đất và đá thông thường là các loại oxid sắt dưới nhiều kết nối giữa sắt và oxy với tỷ lệ khác nhau..

Phần dưới của vỏ trái đất được dự đoán là do hợp kim sắt và nickel vì hợp kim nầy là các “thiên thạch” (meteorites) thỉnh thoảng rơi vào mặt đất, và hợp kim nầy cũng được dự đoán là kim loại đầu tiên cấu tạo ra vũ trụ! Sao Hỏa (Mars) được gọi tên như thế là vì lớp vỏ ngoài được bao bọc bằng oxid sắt có màu đỏ.

Tên Sắt (Iron) có được từ danh từ Old English tên là Isaern, nguyên ủy từ tiếng Celtic là Isarnon.

Trên thế giới, ước tính có khoảng 800 tỷ tấn quặng mỏ sắt dung chứa độ 230 tỷ tấn sắt ròng (nguyên chất). Hàm lượng sắt ở Hoa Kỳ chiếm độ 27 tỷ tấn. Hầu hết (gần 100%) sắt nguyên chất khai thác từ các quặng mỏ được chế biến thành các loại thép khác nhau tùy theo nhu cầu, như hỗn hợp sắt và tungsten, manganese, nickel, vanadium, hay chromium v.v..dùng cho kỹ nghệ xây cất, xe hơi v.v…

Các quặng sắt thường xuất hiện dưới dạng Hematite tức oxid sắt III (Fe2O3) chứa 70% sắt, dạng Magnetite tức oxid sắt sesqui (Fe3O4) chứa 72%, và dạng Taconite chứa độ 30% hỗn hợp hai dạng trên và nhiều kim loại khác.

Sắt còn là một nguyên tố tối cần thiết cho cơ thể con người. Cơ thể con người chứa 0.006% sắt, phần lớn tồn chứa trong máu. Tế bào máu chứa sắt mang oxy từ buồng phổi đi khắp châu thân. Nếu cơ thể thiếu chất sắt, sức miễm nhiễm của cơ thể sẽ bị giảm đi.

Câu chuyện bùn đỏ Cao Bằng

Ngay sau khi tai nạn xảy ra, những nạn nhân ở xã Duyệt Chung đã điện thoại lên UBND Xã để báo tình hình. Và cũng ngay sau đó (?) (theo lời báo chí!), nhân viên xí nghiệp khai thác Nà Lũng đã tìm cách bít lỗ hổng của đập bị vỡ. Dòng chảy của bùn cao từ 2 đến 3 thước chảy như con rắn tràn vào nhà, tràn xuống giếng, vào các cánh đồng. Nhiều nhà tầng thứ nhứt, tức tầng trệt bị ngập hoàn toàn…

Mãi đến 4 ngày sau, bùn mới rút dần vào con suối cuối làng và chảy vào sông Bằng.

Chính Ông phó Chủ tịch UBND thị xã đã cho biết trước đây từ năm 2005, đã nhiều lần xí nghiệp xả bùn làm ngập đồng ruộng gây thiệt hại cho dân mà không đền bù thiệt hại gì cả.

Mỏ quặng Nà Lũng đã được khai thác từ năm 1990. Quặng sắt sau khi được đào sới lên (giống như quặng bauxite, chỉ che phủ bới lớp đất thịt khoảng 1 m) sẽ được phun nước đểu tầy rửa chất bẩn như đất cát, và các hợp kim khác lẫn trong quặng như các oxid Manganese, Selemium, Arsenic v.v… Sau đó phế thải lỏng nầy chảy vào 4 đập lớn thông nhau và các bờ đập đều được đấp “sơ sài” bằng đất.

Chính đập số 4 là đập bị vỡ và nước thải bùn đỏ ở các đập 1,2,3 vẫn tiếp tục chảy vào đập số 4 cho đến khi công ty ngăn chặn dòng chảy lại. Do đó, ước tính lượng bùn đỏ tràn vào xã Duyệt Chung không chính xác. Nhiều cơ quan ước tính hàng ngàn m3, nhiều báo ước tính hàng chục ngàn…có lẽ những con số trên thay đổi tùy theo mức thay đổi của “thủ tục đầu tiên”.

Giải quyết vần đề của những người có trách nhiệm

Như đã nói ở phần trên, ngay từ đầu, Ông Lê Ngọc Quang, Phó CT UBND thị xã Cao Bằng cho biết không phải là lần đầu tiên người dân Nà Lũng bị ngập bùn, chính quyền đã yêu cầu nhiều lần, lên đến công ty, đến cơ quan bảo vệ môi trường và tài nguyên tỉnh…nhưng tất cả là “vũ như cẩn” cho đến khi có “sự cố” vừa qua.

Hiện nay (9/11), người dân phải đích thân dọn nhà cửa của chính mình, công ty chỉ cho máy hút bùn trên những đoạn đường đi vào cổng xí nghiệp. Con suối từ cuối xã Duyệt Chung, một nguồn nước sinh hoạt cho dân chúng của xã, hoàn toàn đặc quánh màu đỏ và vẫn từ từ chảy vào sông Bằng. Dấu hiệu cá chết nổi trên mặt nước cũng đã xảy ra.

Ông Đinh Ngọc Hải, Chủ tịch Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Cao Bằng cho biết công tác khắc phục bùn đỏ như sau: “Đang khắc phục, mọi hoạt động trở lại chỉ có học sinh đi lại còn vất vả. Đang chuẩn bị gia cố lại hồ chứa. Bùn đỏ tràn ra thì hốt đi khỏi khu vực ấy. Chúng tôi cùng các cơ quan chức năng, kể cả người dân sử dụng máy gạt, máy ủi, đưa xuống nơi bùn tràn qua và đưa đi nơi khác”.

Quả thật người viết hoàn toàn mù tịt về phương pháp giải quyết của một Ông CT Hội BVMT của tỉnh…là làm sao hốt bùn tràn vào suối, tràn vào sông, hay bùn đã thấm vào lòng đất, vào mạch nước ngầm? (Nếu Ông Chủ tịch nhận được thông tin nầy xin giải thích cho người dân khắp nơi được rõ để viết bài về phương pháp xử lý bùn đỏ sau khi có “sự cố” bể bờ chắn hồ chứa, hay “xả “lậu” phế thải bùn đỏ”.

Tiếp theo, vào ngày 9/11, một nhà lãnh đạo chuyên môn của Tập đoàn Than-Khóang sản Việt Nam tức TKV, Ông Phó Tổng Giám đốc tuyên bố sẽ dùng máy hút bùn từ dòng suối trở lại đập chứa chất thải của công ty.

Giời ạ! Người viết chỉ còn biết đấm ngực ba lần xưng tội với Chúa, lạy 4 lạy sám hối với Trời Phật, xin tội với Alla…cầu mong có được một trí thông minh tối thiểu để có thể hiểu được và cảm nhận được một phương cách giải quyết vấn đề thần sầu của một nhà chuyện môn, đại diện cho đỉnh cao của trí tuệ nhân loại!

Thay lời kết

Qua những phát biểu và các kế hoạch ban đầu của những người có trách nhiệm trong việc tràn bùn đỏ của xí nghiệp Nà Lũng, chúng ta có thể rút tỉa một số kinh nghiệm sau đây, mặc dù ngay từ sau 1975, chúng ta đã từng rút tỉa biết bao nhiêu kinh nghiệm “xương máu” trong cung cách điều khiển và vận hành những công trình phát triển Việt Nam. Đó là:

· Thái độ vô trách nhiệm của những người chiụ trách nhiệm mỗi khi có tai nạn xảy ra;

· Cung cách phát triển chỉ tập trung vào lợi nhuận, không chú ý đến việc bảo vệ môi trường;

· Cung cách xem thường sự hiểu biết của người dân và những nhà khoa học trong nước và ngoài nước qua việc “giấu kín” chi tiết của các dự án;

· Bưng bít, che đậy, trấn áp người người tố cáo tai nạn, bịt miệng truyền thông, thông tin sai lệch là những thủ thuật của cường quyền áp dụng cho người dân trong nước;

· Coi thường sinh mạng, sức khỏe của người bằng cách che đậy mức nguy hại của tai nạn môi trường, nhứt là trong việc khai thác “dưới đất” (khoáng sản).

Tất cả những điều trên đây thể hiện một não trạng cứng ngắt. Đó là não trạng của một chủ nghĩa Sô Viết Liên Sô còn sót lại trong suốt quá trình thành lập và xây dựng cọng sản chủ nghĩa chúng ta đã “chiêm ngưỡng” qua sự bể từơng chắn bùn đỏ bauxite ở Ukraina vào năm 2005 (bể tường chắn bằng bê tông cao 140m), vụ bể tường chắn tại Hungary tháng vừa qua (tường chắn cao 41m), và tại Việt Nam qua vụ vỡ bờ chắn bằng đất của xí nghiệp Nà Lũng.

Xin hỏi, kể từ đầu thập niên 80 của thế kỷ trước, Việt Nam đã khai thác bauxite tại Lâm Đồng bằng phương pháp thủ công để sản xuất hàng năm độ 12.000 tấn Alumina (oxid nhôm Al2O3) dùng trong việc lọc nước sinh hoạt ở các thành phố lớn ở Việt Nam, như vậy số lượng bùn đỏ thải ra từ đó đến giờ đã được chứa ở đâu hay được xử lý như thế nào?

Mai Thanh Truyết

Nỗi đau bùn đỏ tháng 11/2010

Về đoạn video 'bắt mại dâm' tại Việt Nam

Trên 300 người bình luận về đoạn video được Like-No-Other đưa lên Facebook

Cộng đồng mạng tiếng Việt đang bàn nhiều về đoạn video quay cảnh được cho là bắt giữ một vụ mại dâm.

Tin từ Bấm báo Việt Nam ngày 17/11 cho hay "Bộ Công an cho biết sẽ xem xét vụ việc dưới góc độ pháp luật, trong khi luật sư khẳng định vụ việc đã đi quá giới hạn".

Trong gian phòng giống như nhà nghỉ và khách sạn, hai cô gái không mặc quần áo trên người bị yêu cầu đứng thẳng, dang tay, để chụp ảnh, trong lúc có một số người mặc thường phục lập biên bản.

"Con này, mày đứng dậy tao chụp kiểu ảnh. Nhanh," giọng một người ra lệnh. "Ngẩng mặt lên, dang hai tay ra."

Cô gái bị "nhắc nhở" này lúc đó đang dùng hai tay để che chỗ kín.

Trong video cũng thấy cảnh một người đàn ông khác cũng đang quay phim hoặc chụp hình bằng điện thoại cầm tay.

Một cô gái bật khóc, và giọng nói đó đặt câu hỏi "mày khóc cái gì?".

http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2010/11/101115_police_video.shtml

Nghe/xem bằng Real Player hoặc Windows Media Player

Trên đoạn video cũng thấy những người này ghi chép vào giấy tờ ngay trên giường phủ nệm trắng.

Đoạn phim xuất hiện trên YouTube và sau đó biến mất, hiện trở lại trên mạng xã hội Facebook, được blogger có tên là Like-No-Other chia sẻ trực tuyến và giới thiệu đường dẫn để tải xuống máy tính riêng.

Tức giận và hoài nghi

Cho đến tối 15/11/2010 đã có trên 330 bình luận mà đa số là thể hiện sự tức giận, bên cạnh những câu hỏi hoài nghi.

"Có ai xác thực không, hay chỉ là một trò trá hình của bọn phản động hoặc biến thái bày trò," blogger PHT nghi vấn.

"Mấy ông này giống dân phòng chứ không phải công an," blogger IP nhận xét.

Tuy nhiên, hầu hết các ý kiến cho rằng những hành động như vậy là xâm hại đến nhân phẩm của người khác.

Một blogger là HA nói: "Hành vi sỉ nhục người khác dù người đó vi phạm pháp luật là một hành vi đáng lên án."

Một số khác nhìn vào hiện trạng xã hội Việt Nam hiện nay, như PN: "Thương quá, cũng vì hoàn cảnh nhiều người nghèo quá mà mới ra nông nỗi này."